Trang chủ Diễn đàn Tin tức Đăng ký Thư viện ảnh Hỏi đáp Video Giới thiệu Liên hệ Đăng nhập Xin chào
Thờ thần, Thành Hoàng

THỜ THẦN, THÀNH HOÀNG

Tín ngưỡng thờ thần, thành hoàng là tín ngưỡng dân gian của người Việt rất phổ biến ở Nam Định.

Theo thống kê đều tiên vào năm 1937 tại 807 làng, xã trên địa bàn Nam Định thờ 2.140 vị thần với đủ các loại danh hiệu, tên gọi (tính bình quân mỗi làng xã thờ 2,65 vị thần, cao hơn một chút so với con số bình quân của cả vùng châu thổ: 2,57).

Có các vị thần, thánh là các hiện tượng tự nhiên được nhân hoá, thánh hoá như sấm, chớp, mưa, gió, những vị thần có “lý lịch” là những yếu tố thiên nhiên như thần cây, thần đá, thần nước, thần núi, thần biển, thần động vật. Những vị thần này dân gian còn gọi là Thiên thần. Thống kê ban đầu từ bảng tra thần tích, thần sắc theo địa danh làng, xã của Viện nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội năm 1996, tức là chỉ mới dựa trên 226 thần tích của 113 làng, xã của Nam Định thì đã có 85 vị thần thuộc loại này. Số lượng thực tế hẳn còn cao hơn nhiều.

Thần liên quan đến nước (sông hồ biển) như Nam Hải đại vương, Đông Hải đại vương, Tây Hải đại vương, Câu Mang, Linh lang… Các vị thần được nhân gian gọi là Nhân thần, chiếm số lượng lớn trong tập hợp các thần được thờ. Về mặt lịch đại nếu phân theo thần tích có:

- Thời kỳ Hùng Vương, An Dương Vương: Cao Sơn, Quý Minh, Thục An Dương Vương.

- Thời kỳ chống Bắc thuộc: công chúa Thục Côn, Mai Hồng, Đỗ Thị Dung, Phan Thị Trâm, Tiền Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương, Đinh Lôi, Hoàng Tề.

- Thời kỳ Ngô - Đinh, Tiền Lê: Kiều Công Hãn, Trần Lãm, Đinh Tiên Hoàng, Nguyễn Tấn, Tạ Hùng Ly, Lã Đường.

- Thời Lý - Trần: Đoàn Thượng, các vua Trần, Trần Thủ Độ, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Phụng Dương Công chúa, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư, Nguyễn Hiền, Bùi Khiết, Bùi Tuyết, Trương Long, Đào Sư Tích, Lê Hiến Giản…

Thời chống Minh: Đặng Dung, Lương Minh Nguyệt (Kiến quốc phu nhân)…

- Thời Lê sơ: Nguyễn Phục, Lương Thế Vinh…

- Thời Lê: - Trịnh: Điền quận công, Đặng Phi Hiển, Vũ Huy Trác.

- Thời Nguyễn: Phạm Văn Nghị, Vũ Hữu Lợi…

Nếu xếp theo giới thì các nữ thần chiếm một khối lượng không nhỏ: từ Liễu Hạnh, Liễu Hoa, Thượng Ngàn, đến Hoàng Thái Phi, Hồng Nương, Hồng Hoa công chúa, Huyền Trân, Huệ Lan công chúa, Hạ Thanh công chúa, Phụng Dương công chúa, Trương Thị Phương, Tống Hậu…

Còn nếu quy chiếu theo thánh tích, huân công của các vị thần, thì trong tập hợp trên có:

- Những vị thần có huân công với đất nước, có công với các triều đình phong kiến (đánh giặc, dẹp loạn, phò tá triều chính, hoặc “âm phù” nhà vua…) như Đinh Bộ Lĩnh, Trần Minh Công, Hưng Đạo Vương, Trần Quang Khải, Lương Nguyệt, Đặng Dung…

- Những vị là tiền hiền khai khẩn, mở đất lập làng: Trần Vu, Vũ Chi, Hoàng Gia, Phạm Cập, Vũ Duy Hoà (Hải Anh, Hải Hậu), Ngô Miễn (An Cự, Xuân Trường), Phạm Văn Nghị, Nguyễn Điển, Phạm Thanh (Hải Lạng, Nghĩa Hưng)…

- Những Vị là những khoa bảng tài danh (trạng nguyên, tiến sỹ), mở đầu cho truyền thống khoa bảng của làng, của họ, danh tiếng cho làng: Phạm Bảo, Phạm Đạo Phú (Dương Phạm, Nghĩa Hưng…

- Có thần là các vị tổ nghề, như Tô Trung Tự nghề trồng hoa (Vị Khê, Nam Trực), Lê Công Hành (Hàng Thêu, thành phố Nam Định), Lục vị tổ sư (Vân Chàng, Nam Trực).

(Nguồn: Namdinh.vn)