QUAN HỆ DÒNG HỌ
---Mai Thanh Hải---
Chúng ta cũng nên thấy rằng, chưa bao giờ Việt Nam thực sự bước chân vào gia phả học (genealogy) như một số nước khác đã thâm nhập môn khoa học này từ ba bốn thế kỷ nay. Bỏ xa hướng hoài cổ và cao ngạo, gia phả học ngày nay hướng về tương lai, vun đắp trách nhiệm vì một loài người hiện đại, thông minh, nhân ái.
Thời xa xưa, ông cha ta đã nhiều lúc chú ý xây đắp truyền thống các dòng họ, tôn vinh công lao tổ tiên, dạy dỗ con cháu tiếp bước theo hồi trống thúc giục: "con hơn cha là nhà có phúc". Lịch sử đất nước ghi nhận vai trò các dòng họ đã có đóng góp vào sự hình thành và phát triển của dân tộc, cho sự nghiệp chinh phục thiên nhiên và bảo vệ đất nước, đặc biệt là đã khắc họa những nét mầu không thể xóa mờ trong việc hình thành nhân cách và phong thái con người Việt Nam trong một thế giới đầy biến động và xáo trộn. Tuy nhiên, trong điều kiện xã hội cũ, việc nối kết các dòng họ cũng khó tránh khỏi những nét tiêu cực, nhiều khi làm phức tạp thêm các mối quan hệ xã hội vốn rối rắm của quá khứ.
Vượt qua thác ghềnh của thời cuộc, một vài dòng họ có sức sống dẻo dai vẫn gìn giữ nền nếp hương khói cha ông tổ tiên, nhờ đó mà dõi theo được các chi, các nhành cháu con đi làm ăn gần xa, duy trì được nét cơ bản trong truyền thống quý báu của dòng họ mình, giữ được mối dây nối kết tình máu đào nội tộc. Như dòng họ Doãn, gốc tích từ cha Kẻ Nưa, giáp Cá Na (nay thuộc xã Tân Ninh, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa), đi từ lao động khai phá đất hoang lên nông nghiệp căn cơ vững bền, rồi rèn đúc chí hiếu học để có thể tiến thân bằng chữ nghĩa. Dòng họ Doãn còn giữ nguyên tổng phả ghi danh tánh mấy chục con em học giỏi, thi đỗ làm quan các triều Lý, Trần, Lê, Nguyễn, nhưng đều nổi tiếng ở tính tình cương trực, khí tiết đàng hoàng, như cụ Doãn Định (1312-1363) dám can ngăn nhà vua và vạch lỗi lầm của Thái thượng hoàng nhà Trần. Lại còn truyền thống đánh giặc cứu nước khởi đầu tư Doãn Nỗ mười năm theo Lê Lợi giành lại non sông, qua Doãn Đăng Thức đời Lê Cảnh Hưng, Doãn Văn Hiệu, Doãn Hy, Doãn Uẩn đời Nguyễn cho đến các tướng Doãn Tuế, Doãn Sửu thời đánh Pháp, đánh Mỹ gần đây. Hiện nay, các chi họ Doãn ở Phú Mỹ - Hà Tây, ở Vũ Thư - Thái Bình, ở Nghĩa Thành - Nam Định, ở Quế Phong - Quảng Nam, ở Sơn Đông - Hà Tây, ở Đại Lộc - Quảng Nam... vẫn có liên hệ với quê gốc ở chi Cổ Định - Thanh Hóa.
Việc nối kết dòng họ và sưu tập gia phả, trong rất nhiều trường hợp, đã nâng cao lòng tự hào về truyền thống tốt đẹp của dòng họ, làm xúc động nhiều tấm lòng tưởng đã nguội lạnh để trở về đùm bọc người thân thuộc, góp phần chỉnh đốn lại gia phong, gia giáo. Họ Vũ (Mộ Trạch, Cẩm Bình, Hải Dương) tìm được cuốn phả viết năm 1470, ghi việc từ tổ Vũ Hồn (804-853), từ đó nối được hơn 110 chi dòng họ Vũ, Võ ở trong và ngoài nước. Họ Ngô tìm được phả ghi việc từ đời Ngô Nhật Đại tham gia khởi nghĩa với Mai Thúc Loan, rồi ba trăm năm sau là Ngô Quyền, đến nay chắp nối được 213 chi, ngành họ Ngô cư trú ở 195 xã, phường trong 27 tỉnh, thành. Từ một tấm bia đá "Hạ tộc bi ký" tìm thấy ở một ngôi chùa Lạng Giang (Bắc Giang), họ Hạ ở Đáp Cầu tìm về gốc tích trong Thanh Hóa, rồi nối kết được các chi phái họ Hạ ở Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Tây, Thanh Hóa, Phú Thọ, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Dương, TP Hồ Chí Minh,v.v.
Ở đây, nên ghi công cho các bản gia phả sưu tập công phu đã cung cấp nhiều tư liệu quý giá về sử học, xã hội học. Thí dụ như cuốn "Dương tộc thế phả" ở làng Lạt Sơn (Quyển Sơn, Kim Bảng, Hà Nam) chỉ cần 20 trang đã đưa ra nhiều tri thức về địa lý, về nông nghiệp, về tài nguyên khoáng sản, về dân cư, về tôn giáo, phong tục tập quán hội hè đình đám cả một miền đất ven sông Đáy. Hoặc cuốn "Ngô gia thế phả" ở Thái Bình cùng các cuốn gia phả chi họ Nguyễn ở Thất Khê (Tràng Định, Lạng Sơn), ở Vũ ẻn (Thanh Ba, Phú Thọ) cung cấp nhiều tư liệu về cuộc đời riêng của Nguyễn Trãi (1380-1442), đặc biệt là cuộc sống gia đình của ông với Nguyễn Thị Lộ và các bà vợ họ Châu, họ Phùng, họ Phạm cùng các con của ông. Bản "Phạm tộc phổ ký" sưu tầm ở Yên Mô (Ninh Bình) không chỉ nêu cao truyền thống hiếu học của con cháu họ Phạm qua 500 năm, mà còn chép lại đầy đủ quy chế về giáo dưỡng, về rèn giũa đạo đức, về giữ gìn gia phong khiêm nhường trước và sau khi đỗ đạt, làm quan, về mẫu mực nghĩa khí như Phạm Thận Duật (1825-1885) phò vua Hàm Nghi lên núi Quảng Trị để hạ chiếu Cần Vương, rồi đắm thân mình dưới đáy biển cả khi bị giặc đày đi đảo xa Tahiti. Bản "Trúc lâm phổ ký" kể chuyện ông tổ Nguyễn Thời Trung đỗ Tiến sĩ, đi sứ Bắc Kinh, lén học được nghề làm giày dép về truyền cho đời con cháu từ quê Tứ Lộc (Hải Dương) mở nên các phố nghề giày dép của Hà Nội xưa: Hàng Hài (nay là đầu Hàng Bông, Hàng Giày, Hàng Hành,... với ngôi đền hiện còn ở cuối phố Hàng Hành "Trúc Lâm Tự" thờ tổ nghề giày dép da Việt Nam.
Tuy nhiên, nhìn chung, chỉ khoảng mươi năm gần đây, nhu cầu tìm lại cội nguồn, nối kết dòng họ ở Việt Nam mới gặp đủ điều kiện chín muồi để rộ lên như một phong trào. Như một dòng chảy tự nhiên, người ta đi vào khôi phục và làm rạng danh nền văn hóa gia đình - dòng họ Việt Nam. Những người ưa thực tiễn thì kiếm tàu xe, lên đường lặn lội đến rừng xanh núi đỏ để tìm lại anh em chú bác họ hàng, và sau đó là làn sóng dịch gia phả, viết lại gia phả, quy tập nghĩa trang dòng họ và xây lại mộ tổ, xây nhà thờ họ, chắp nối các chi, các nhành lâu nay phiêu cư bạt quán, bầu cử hội đồng Tộc biểu, sắp xếp thế thứ, quy định gia giáo, gia phong và... định lệ cúng tế giỗ chạp tổ tiên,v.v.
Đáp ứng nhu cầu của "phong trào" một "Câu lạc bộ UNESCO thông tin các dòng họ" (gần đây, đổi sang là "Trung tâm thông tin các dòng họ", dưới đây viết tắt là ttDH) được hình thành. Cho đến nay, ttDH có liên lạc được với đại diện 192 dòng họ. Có thể ghi nhận rằng, các vị chủ trì ttDH đã bỏ nhiều thì giờ, nhiều sức lực để đạt được một số kết quả ban đầu. Tuy nhiên, với chức danh thiếu rõ ràng và với vai trò quá hạn hẹp, câu lạc bộ ttDH khó có thể có tác động đáng khích lệ nhằm dẫn dắt phong trào đi đúng hướng, làm được nhiều việc tốt, hạn chế hoặc tránh bỏ được những lệch lạc không nên mắc phải (những hiện tượng lệch lạc này phần lớn nằm ngoài tầm tay của ttDH).
Gần đây, nhiều thôn xóm ồn ào đòi mộ tổ (có mộ đã bị biến dạng hoặc san bằng từ trước năm 1945, con cháu không biết tên tuổi người xưa nằm dưới đất là ai), rủ nhau đi quy tập các ngôi mộ trong dòng họ thành một "nghĩa trang" riêng có tường cao vây quanh, có cổng lớn đắp cuốn có miếu nhỏ bốn góc, có khi có cả mấy cái lăng giả. Cùng với phong trào mộ tổ và nghĩa trang dòng họ là công cuộc kinh doanh bán đất để chôn cất và cải táng cho bất kỳ ai có con cháu nhiều tiền, do đó nghĩa trang mọc ra tùm lum cả trong khu vực đã quy hoạch, cả giữa quận nội thành, bất chấp quy phạm về môi trường.
Đi sát phong trào xây mộ tổ là cả một cao trào tụng niệm về "cuộc sống tâm linh", tất yếu dẫn tới tình cảnh kiện tụng đòi lại nhà thờ họ, góp tiền tỷ đua nhau xây cất lại "đại tộc lễ đường" cao to hơn xưa, rộng rãi hơn xưa, vì phải đủ chỗ cho con cháu nội tông ngoại tộc đi về cúng tế cỗ bàn. Từ Phú Thọ, Bắc Giang, qua Nam Định, Ninh Bình vào Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa, cho tới Long An, Cần Thơ, An Giang, đều đã nổ ra các vụ đòi nhà thờ họ. Đáng chú ý là việc đòi và xây nhà thờ họ luôn luôn được đội một cái mũ "tâm linh" rất to hoặc được che một cái ô "hiếu nghĩa" nhiều mầu vẻ.
Khi biên soạn gia phả, rất tiếc đã có tình trạng họ này chê bai họ kia là hèn kém, là dân ngụ cư, là con cháu nhà mõ; đi xa hơn một chút, có dòng họ nọ bị dẫn ra là "dân gốc Tàu" hoặc sa vào cảnh khoe tất cả các loại chức tước của quá khứ... mà nhiều khi vô vị.
Khi chúng ta nói xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thật là sai lầm nếu chúng ta tiếp thụ tất cả các tập tục, lề thói, nghi thức, tín ngưỡng của người xưa trong văn hóa dòng họ và gia đình. [...] Vì vậy, khôi phục và trau dồi văn hóa dòng họ phải là quá trình gạn đục khơi trong, phải có sự sáng tạo, sự phát triển ngang tầm cao mới của lịch sử, góp phần tạo nên đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí tiên tiến, khoa học phát triển, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Nguồn: Khoa học và Tổ quốc