CHI HỌ VŨ BA ĐỘNG
Vũ Huy Chân
Trong khi văn nghiệp của họ Vũ chúng ta phát triển rực rỡ trên khắp nước, trải qua nhiều thời đại, vua biết mặt, chúa biết tên, thì một chi thuộc của chính dòng họ Vũ Hồn thiên sang ở huyện Gia Lộc lại tạo nên một sự nghiệp mà không mấy ai trong chúng ta có thể đánh giá hết được vai trò, vị trí của nó trên toàn quốc Việt Nam. Cũng là phi đế, phi bá, tuy không quyền khuynh thiên hạ, nhưng cũng nắm trong tay nửa cõi sơn hà. Lại cũng phụ truyền tử kế song song với Triều Mạc, và bền bỉ không thua kém nghiệp Chúa Trịnh bao nhiêu.
Hồi ấy vua Lê Tương Dực vừa bị quyền thần là Trịnh Duy Sản giết (1516). Duy Sản giết vua Tương Dực rồi lập Quang Trị là con Mạc Ý Vương mới 6 tuổi, lên làm vua. Người anh Trịnh Duy Sản là Trịnh Duy Đại bắt Quang Trị đem vào Tây Kinh rồi cũng giết nữa.
Triều đình khi ấy vắng ngôi vua, dân tình rối loạn. Nguyễn Hoàng Dụ đóng quân ở bến Bồ Đề được tin Trịnh Duy Sản giết vua, bèn đem quân về đốt phá kinh thành. Trịnh Duy sản đem người con của Cẩm Giang Vương tên là Ý, khi ấy mới 14 tuổi, tháo chạy về Tây Đô rồi lập lên làm vua, tức Lê Chiêu Tôn.
Đông Đô bỏ trống. Trần Cao đương làm loạn ở vùng Hải Dương bèn kéo quân về kinh thành (lúc ấy đã bị tàn phá) và tự lập làm vua.
Đình thần nhà Lê là Trịnh Duy Sản, Nguyễn Hoàng Dụ, Trịnh Tuy, Trần Chân cùng hội binh ra đánh đuổi Trần Cao rồi sửa sang lại kinh thành. Khi tuần tiễu giặc ở vùng Lạng Nguyên, Trịnh Duy Sản vì khinh địch nên bị giặc giết. Sau khi giặc tan rã, Nguyễn Hoàng Dụ và Trịnh Tuy kéo quân về, nhưng lại cùng đóng ở ngoài thành khởi sự đánh nhau. Triều đình cản ngăn không được. Trịnh Duy Sản lại có ý phản loạn, nhưng âm mưu bị tiếtlộ và Duy Đại bị giết bên ngoài, Trần Chân bênh Trịnh Duy đem quân cùng đánh Nguyễn Hoàng Dụ. Nguyễn Hoàng Dụ yếu thế rút về Thanh Hoá. Vua được tin Trần Chân mưu phản, bèn cho triều vào thành rồi phục quân giết đi. Bộ tướng của Trần Chân là bọn Hoàng Văn Nhạc, Nguyễn Kính, Nguyễn Áng đem quân ra đánh phá kinh thành đòi giết bọn hoạn quan sàm tấu. Triều đình phải trao mấy kẻ cận thần cho chúng nhưng chúng vẫn không bãi binh. Vua phải chạy sang vùng Gia Lâm lánh nạn và cho triệu Nguyễn Hoàng Dụ về bảo giá, nhưng Nguyễn Hoàng Dụ không ra. Vua lại phải gọi đến Mạc Đăng Dung khi ấy đang ở quê nhà, làng Cổ Trai, thuộc huyện Bình Hà, trấn Hải Dương (nay là huyện Nghi Dương, tỉnh Kiến An ) Mạc Đăng Dung bèn truyền hịch đi khắp trong trấn để tuyển mộ anh hùng hào kiệt ra giúp nước.
Nhân dịp này, tại làng Ba Động, huyện Gia Phúc (sau là Gia Lộc) cùng trong trấn có người tên là Vũ Văn Uyên cũng đứng lên chiêu mộ quân Cần Vương. Vũ Văn Uyên vũ dũng hơn người, lại nhiều mưu lược, luyện quân có phép tắc, nên đám quân tuỳ hổ của ông dù chỉ có mấy ngàn người cũng đủ làm xiêu rừng bạt núi.
Mạc Đăng Dung sai người mời ông đến tương hội, rồi cử ông làm tướng tiên phong, chọn ngày ra quân phò vua giúp nước.
Cuối niên hiệu Quang Thiệu (1522) ông tới Gia Lâm triều bái vua và được vua phong làm phó tướng. Mạc Đăng Dung tự cầm quân chống nhau với Trịnh Tuy, ông còn sai ông chống đánh bọn Nguyễn Kính và Nguyễn Áng. Ông lập được khá nhiều công trận, nhưng bốn phương không thể một sớm một chiều mà trừ ngay được. Sau phía địch lại liên kết với nhau, lập Lê Đô lên làm vua, và thanh thế chúng lại khá vững mạnh. Một lần nữa vua phải vời Nguyễn Hoàng Dụ ra đánh giúp, nhưng Hoàng Dụ thua quân lại trở về Thanh.
Sau quân Mạc Đăng dung và Vũ Văn Uyên đánh tan được cánh quân Trịnh Tuy, giết được Nguyễn Suy và Lê Đô, lại cả phá cánh quân của Hoàng Duy Nhạc, Nguyễn Kính và Nguyễn Áng. Ba tên này phải xin về hàng và Đăng Dung kết nạp họ làm bọn bộ hạ tâm phúc.
Vũ Văn Uyên có công lớn được phong làm Đô Thống Sứ tự Đông thống bình sứ, tước Khánh Dương Hầu.
Việc nước vừa yên thì Mạc Đăng Dung cậy công chuyền quyền. Vũ Văn Uyên bèn tìm kế để dời xa họ Mạc. Nhân đất Tuyên Quang có nhiều giặc cỏ nổi lên, ông bèn xin đi đánh dẹp, nhưng rồi liền ở đó và xây dựng một bờ cõi riêng của mình.
Tuyên Quang xưa là đất bộ Văn Lang. Đời Hậu Lê gọi là Tuyên Hoá phủ. Đời Lê Uy Mục vừa đổi tên là Minh Quang Phủ (1509).
Đất Tuyên Hoá hay Minh Quang về hồi ấy, so với bây giờ là các khu vực: Tuyên Quang, Hà Giang, Lào Kay, Yên Bái, Hoà Bình, Sơn La, Lai Châu và một phần đất mất về Vân Nam. Không kể số đất mất về Trung Hoa, diện tích khu này cộng chung là 59.947km2 so với toàn khu Bắc Việt, từ Ninh Bình trở ra, cộng là 115.800km2.
Như vậy phần đất đai thuộc họ Vũ còn to rộng hơn phần đất đai thuộc nhà Mạc. Về dân số dưới quyền cai trị của họ Mạc có thể đông gấp 20 lần số dân dưới quyền cai trị của họ Vũ.
Tuy vậy, nếu có đánh nhau thì đất Tuyên Hoá hiểm trở, lại quá rộng, quân Mạc không biết tìm địch đâu mà đánh. Còn đóng lại để giữ thì phần không thuỷ phục thuỷ thổ, phần bị đáng bất thần, cho nên thường thì quân Mạc chỉ thua và vì thế hai nhà mới chống giữ nhau được hơn 100 năm, không ai xâm phạm bờ cõi của ai được.
Trong khi họ Mạc chiếm ngôi nhà Lê lập nên nhà Mạc thì ở Tuyên Hưng họ Vũ cũng xây dựng một biên cương tự chủ. Mới đầu họ Mạc có gửi sứ thần đến phong cho ông Vũ Văn Uyên chức Trấn thủ tước Quốc Công nhưng ông không nhận. Từ đấy trở thành thù nghịch, nhưng chưa đánh nhau ngay, vì cả hai bên đều phải củng cố thế lực.
Vũ Văn Uyên mất. Quyền về người em là Vũ Văn Mật (ngang khoảng cuối đời Mạc Đăng Doanh qua đời Mạc Phúc Hải). Trước kia Vũ Văn Uyên mới lĩnh của nhà Lê có phần đất Tuyên Quang, đến đời Vũ Văn Mật mới mở rộng bờ cõi ra phần đất Thanh Hoá. Cả hai khu hợp lại gọi là đất Đại Đồng và họ Vũ đóng binh tại thành Nghị Lang (thành Nghị Lang lúc sau này đã mất vào Vân Nam).
Bấy giờ nghe tin vua Trang Tôn được Nguyễn Kim phụ tá, khởi lên làm việc Trung hưng ở Thanh Hoá, Vũ Văn Mật bèn sai người đến chỗ hành tại dâng lễ vật và sớ văn xin được vì nhà Lê trừ họ Mạc. Vua Lê bèn phong cho Vũ Văn Mật làm An Tây Vương, cho con cháu được tập tước, và văn thư của triều đình ban xuống đều gọi là An Tây doanh, thật là trịnh trọng.
Vũ Văn Mật đem sắc phong ấy hiểu dụ với các đỗng, tức thì những đỗng chúa ở các Châu Tung Đăng, Lệ Toàn, Hoàng Nham, Tuy Phụ, Hợp Phù, Khiêm Châu, Lai Châu, Tuần Châu, Mai Sơn, cho tới các Mãnh, trước kia còn lánh mặt chưa phục thì lúc nàyxin về quy thuận cả. (Một số châu này nay mất về Trung Hoa). Danh tiếng Vũ Văn Mật khi ấy thật lẫy lừng, khiến nên chỗ biên thuỳ được nhà thanh kiêng nể, còn họ Mạc thì ngày đêm lo tính việc tảo trừ.
Đã mấy lần vua Mạc sai tướng binh đi đánh Tuyên Quang, ngay cả Mạc Kinh Điển cũng đem quân đi đánh một lần nhưng đều không có kết quả. Lại gặp khi phải chống với nhà Lê ở phía Nam nên đành phải gác bỏ việc chinh chiến ở miền Tây Bắc. Còn quân An Tây Vương cũng có mấy lần vào đánh Sơn Tây (nay là khu Phú Thọ, Vĩnh Yên, Sơn Tây) nhưng Mạc cố thủ, chỉ đợi quân ngoài mệt mỏi rồi mới đổ đánh. Do thế cả hai bên đều không làm gì được nhau, mà chỉ đành đứng ở thế cầm cự, kéo dài cả gần 100 năm, cho đến khi nhà Lê trung hưng lên rồi cùng bị tiêu diệt cả.
Vũ Văn Mật nất, con là Vũ Công Kỷ nối phong tước Nhân Quốc Công (ngang đời Mạc Phúc Nguyên). Công Kỷ mất, con là Vũ Đức Cung nối phong tước Hòa Quốc Công (ngang đời Mạc Hậu Hợp).
Đức Cung mất, con là Vũ Công Ứng nối phong tước Thụy Quận Công (ngang đời Mậu Hợp và Kính Cung). Công Ứng mất, con là Vũ Công Sực nối phong Tống Quận Công (ngang đời Mạc Kính Khoan). Công Sực bị kẻ bội tướng là Ma Phúc Tường giết và cướplấy quyền (ngang đời Mạc Kính Vũ). Nhưng các bộ lạc lại nổi lên giết Ma Phúc Tường để trả lại quyền cho con Vũ Công Sực là Vũ Công Tuấn. Theo thường lệ, Công Tuấn lại sai người về Đông Đô triều cống và cầu phong.
Lúc này họ Trịnh đã diệt xong họ Mạc ở Cao Bằng. Cũng không muốn trong nước còn một chúa thứ hai nữa, bèn triệu Vũ Công Tuấn về kinh, phong cho làm Khoan Quân Vương và giữ luôn ở đó. Sau đó bày mưu cho người rủ Công Tuấn đi Quảng Nam, phao vu cho tìm lối sang hàng nhà Thanh và đem giết đi. Chúa Trịnh còn vu cho Vũ Công Sực trước đã đem 3 động: Phổ Viên, Ngưu Vương, Hồ Điệp trả lại cho Trung Quốc. Thật ra thì những đất này đã do Thổ mục Nùng Vạn Chung đem dâng cho nhà Thanh vào năm Thuận Trị thứ 17 (1660) đúng vào khi Vũ Công Sực đã bị Ma Phúc Tường giết hại.
Như vậy, từ Vũ Văn Uyên đến Vũ Công Tuấn cộng là 7 đời gồm 134 năm, cũng ngang với từ Mạc Đăng Dung đến Mạc Kính Vũ gồm 8 đời cộng là 133 năm. Chỉ tiếc rằng lúc này đã có nhà Mạc là Bắc Triều, lại có nhà Lê là Nam Triều, nên công nghiệp họ Vũ bị lưu mờ, i1t người nhắc tới và có lẽ vì họ Vũ đã xưng thần với nhà Lê rồi, nên sử gia cũng không muốn lập thêm một triều đại nữa (có bản dịch Phương đình dư địa chí nói sơ về họ Vũ chúng ta ở phần Tuyên Quang, con cháu họ Vũ hãy tìm xem).