Trang chủ Diễn đàn Tin tức Đăng ký Thư viện ảnh Hỏi đáp Video Giới thiệu Liên hệ Đăng nhập Xin chào
Danh mục
Thống kê
Đang online: 68
Truy cập hôm nay: 710
Lượt truy cập: 11,522,701
Hỗ trợ trực tuyến
Quảng cáo
Lược dịch ngọc phả Thàn Tủy Tổ

LƯỢC DỊCH NGỌC PHẢ THẦN THUỶ TỔ
VŨ TỘC  MỘ TRẠCH

Vũ Đình Triều

Cháu đời thứ ba Viêm đế là Đế Minh đi tuần thú núi Nghĩa Lĩnh, lấy Bà Vụ Tiên mà sinh ra Kinh Dương Vương.

Kinh Dương Vương tự bẩm khác thường, có khí tượng đứng đê, Đế Minh muốn truyền ngôi lớn cho, nhưng Kinh Dương cố nhượng cho anh  là Đế Nghi.

Đế Minh bèn chia nước cho Kinh Dương sang làm vua nước Nam, gọi là nước Xích Quỷ.

Kinh Dương Vương bèn đi xem khắp hình thế sơn nguyên, thấy Châu Phong là nơi thắng địa bèn lập làm kinh đô, xây cung điện ở núi Nghĩa Lĩnh.

Kinh Dương Vương mất, con là Lạc Long Quân nối ngôi.

Lạc Long Quân lấy con hái Vua Động Đình là Bà Âu Cơ. Trên núi Nghĩa Lĩnh bỗng có năm sắc mây hiện lên rực rỡ. Bà Âu Cơ cảm mà có thai, đến kỳ mãn nguyệt sinh ra một bọc trứng nở thành 100 người con trai đều là bậc anh hùng quán thế.

Khi 100 trai đã trưởng thành, Vương mới chia nước làm 15 Bộ để phong hầu cho các con làm phiên binh.

Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: “Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, tuy khí âm dương giao hoà mà có con, nhưng phương loại khác nhau, thuỷ, hoả, xung khắc không thể ở với nhau được”, Vương bèn chia 50 con theo cha về biển, 50 con theo mẹ về núi lập con trưởng làm Vua đóng đô ở Châu Phong là nơi Bạch Hạc hợp dòng sông Thao, nước gọi là Văn Lang. Mười tám đời cha truyền con nối đều gọi là Hùng Vương. Dân Bách Việt được hơn 2000 năm thái bình thịnh trị, đến đời chót là Hùng Tuấn Vương không người kế tự đã ngường ngôi cho Thục An Dương Vương.

An Dương Vương làm Vua được 50 năm lại bị người Chân Định là Triệu Đà tức Triệu Vũ Đế đánh lấy mất nước.

Nhà Triệu làm vua truyền được 5 đời thì phải nội thuộc nước Tàu, trải qua nhà Đông Hán, Nhà Ngô, Nhà Tần, Nhà Tống, Nhà Tề, Nhà Lương…kéo dài năm sáu trăm năm. Mãi đến khi có Nhà Ngô, Nhà Đinh, Nhà Lê, Nhà Lý, Nhà Trần nước ta mới độc lập tự chủ.

Lại kể từ đời Vua Nam Đế họ Lý (tên huý là Phần) Nhà Tiền Lý (là người Đông Hưng, Thái Bình) làm Vua được 4 năm, đóng đô ở Long Biên, sau lại phải nội thuộc Nhà Tuỳ, Nhà Đường  ………………………………

………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………

Khoảng ấy có một người ở Phủ Thường Châu bên Tàu, truyền nhà y bát nối nghiệp cơ cừu, tên huý là Vũ – Công – Huy làm ngôi quan lớn triều Đường, chính thất là Lưu Thị Phương.

Vũ Công đã ngoài 60 tuổi mà trong mộng chưa thấy hùng bi ngoài cửa chưa treo hồ thỉ, cảnh muộn mằn làm Công không vui. Công thường than rằng “Vàng núi thóc bể, khinh như cỏ rác, con hiếu cháu hiền, trọng hơn châu ngọc” bèn làm sớ tấu xin từ chức. Vua Đường chuẩn cho, lại ban xe ngựa châu báu cho về trí sĩ. Công tạ ơn ra về, vui cảnh cúc tùng, cùng thân thuộc hội họp lý đào, cùng cố cựu tiên đao phân tử.

Công lại tinh thông  phong thuỷ, tường phép địa lý chính tông. Có một lần ngài sang Việt Nam, xem khắp các nơi hình sông thế núi đến trang Mạn Nhuế thuộc Thanh Lâm trấn Hải Dương thấy đây có một thế đất tốt, sơn thuỷ quanh quất, long hổ cung triều, Công bèn về rước mộ tổ sang táng vào, đấy là xứ Đống Đà (ở hương phố gọi là Đống Dờm).

Thời ấy ở trang Mạn Nhuế có một thiếu nữ là Nguyễn Thị Đức, tuổi vừa đôi tám, tính hạnh đoan trang, ngôn dung uyên nhã, nếp nhà thi lễ, nối đời chân nho. Công rất lấy làm vừa ý thầm nghĩ rằng “Đầu én, mày ngài, thực là quốc sắc, mà đào, lưng liễu ra vẻ tiên dung”. Người xưa cho đó là tướng “Đa sản anh hào, dản sinh đế nhất, phúc địa chung phúc nhân” thực không sai vậy.

Công bèn mượn hồng điệp lênh đênh đưa mối, mà đem xích thằng vấn vít xe duyên. Thật là “Duyên đằng thuận nẻo gió đưa, cùng người công tính xe tơ từ rầy”.

Từ đó Công tạm lấy nơi ngoại quán làm chốn tử phân thang mộc hơn một năm sau có một đêm bà nằm mộng, thấy thần đem cho một quả đào tiên bèn nuốt lấy. Bà đem chuyện nói với chồng. Công cho là điềm tốt bèn đem bà về cố hương.

Từ đó bà cảm mà có thai. Đêm ấy nhằm ngày 08 tháng Giêng Năm Giáp Thân (804), tự nhiên có một đám mây vàng, hình tròn như cái tán che phủ trước sân, xuyên suốt xuống đất. Bà sinh hạ một thần nhi, tư trời tuấn tú, khí vẻ hiên ngang, mày Vua Nghiêu, mắt Vua Thuấn, lưng Vua Võ, vai Vua Thang, dáng mạo khác thường, Công đắc ý đặt tên là Hồn.

Khi 7 tuổi Cậu đi học vỡ lòng, sách vở xem qua một lần thì nhớ hết. Mười hai tuổi học vấn tinh thông, văn chương tuấn tú, thi tài gồm ông Lý, ông Đỗ, lại còn giốc chí cung tên, tinh thông thao lược, văn đã hay mà võ lại giỏi, thực xứng là bậc lệnh tứ khắc gia.

16 tuổi, thi Đình, Vua Đường xét tài thì ngoài thiên văn địa lý, việc gì cũng giỏi. Vả lại học vấn uyên thâm, thiên tư thanh tú, vua rất ưng ý cho là nhân tài bậc nhất thiên hạ, phong cho ngài làm chức quan Lễ Bộ Tả Thị Lang, ban cho xe ngựa áo mũ về vinh quy. Sau khi bái tạ từ đường tổ tiên, ngài tiến triều nhậm chức.

Sau thăng chức Đô đài ngự sử, lại thăng An Nam Đô hộ sứ để đi kinh lý phương nam

………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………..……

Một ngày đến trấn Hải Dương (cổ gọi là Dương Tuyền, sau đổi là Hồng Châu) phủ Nam Sách, huyện Thanh Lâm, trang Mạn Nhuế. Ngài vào bái yết tổ mộ, lại đi đến trang Khả Mộ huyện Đường An phủ Bình Giang thấy trang ấy sơn thuỷ (hữu tình) thanh tú, long hổ hoàn bão, nội sào, ngoại sào, tả phù hữu bật, ngũ mã triều tiền thất tinh củng hậu, thần đồng dáng đứng, bảng bút đầy bên, thật là nơi đất phát tổ Tiến sĩ vậy, ngài bèn hoạ thành đồ bản.

Khi về triều phục mệnh, vua Đường tuyên chiếu rằng “Nhà ngươi có nhiều công lao với nước , nay tuỳ nhà ngươi muốn thế nào thì trẫm cũng thuận”.

Ngài cảm động lui về bàn rằng “Người xưa được một ngày nuôi cha mẹ, dẫu làm đến tam công cũng không sướng bằng, ta nay còn có mẹ già, há nên tham giàu sang mà không nghĩ đến sự hiếu dưỡng hay sao”. Ngài bèn làm sớ tâu vua xin từ chức về nuôi mẹ. Vua Đường thuận tình ban vàng bạc, gấm vóc cho về trí sĩ.

Ngài tạ an vua rồi rước đức sinh mẫu sang Việt Nam lập một toà lâu đài ở trang Khả Mộ để phụng dưỡng và khuyên bảo trang dân, làm sự lợi, trừ sự hại, dần dần Khả Mộ thành một trang có lễ nghĩa và giàu thịnh. Đây là công đức của ngài.

Vì thế mà trang dân suy tôn ngài là mặt trời mặt trăng, tôn kính ngài như cha mẹ. Ngài lại là cụ Thuỷ Tổ sáng lập trang Khả Mộ vậy. Trang dân xin với Ngài rằng: “Trang khu có hậu đạo với ta thì phải trọng lời di chúc của ta, mà ngàn năm thờ phụng”. Ngài lại cho thêm năm nén vàng, tậu ruộng ao để cung ứng tế tự, trang dân đều vâng lệnh.

Khi ấy, Đức Thánh Mẫu đã già yếu bệnh đã lâu, thuốc thang không giảm, kỳ đảo không hiệu, rồi mất.

Ngài khóc than khôn xiết, rồi rước linh cữu lên táng ở xã Kiệt Đặc huyện Thanh Lâm, hương khói 3 năm thì mãn phục.

Năm Nhâm Thân (853) đã 49 tuổi, ngày 03 tháng 12 âm lịch, Ngài đương ngồi tại học đường thấy trong mình khó chịu, rồi thiếp đi, không bệnh mà hoá. Trang dân và gia thần bèn rước ngài lên xứ Đống Dị-đầu bản trại an táng. Bỗng nhiên trời đất tối sầm, mây mù phủ kín, một giờ lâu trời quang mây tạnh thì đã thấy kiến, mối đùn đắp thành một ngôi mộ lớn. Trang dân và gia thần đều kinh hãi, việc ấy được báo lên quan để tâu lên vua. Vua cho truy nguyên lúc bình nhật, sắc phong là một vị phúc Thần. Lại phong:

ĐƯƠNG CẢNH THÀNH HOÀNG

LÂU ĐÀI CƯ SĨ

LINH ỨNG ĐẠI VƯƠNG

Chuẩn cho khu Thượng trang  Khả Mộ lên kinh thành rút mỹ tự về lập miếu phụng thờ, cắm khu đất ấy gọi là Mả Thần dựng mộ trí, sở tại ức niên hương hoả.

Lại nói từ đây về sau, vẫn thường linh ứng, lưỡng triều đều gia phong mĩ tự.

Triều Vua Nhân Tông nhà Trần, giặc Nguyên sang cướp nước ta. Kinh thành Thăng Long thất thủ. Đức Trần Quốc Tuấn phụng mệnh kỳ đảo bách thàn. Đức Thần tổ ta có hiển ứng âm phù. Khi đã bình được lũ Ô – Mã – Nhi , Phàn Tiếp, giặc Nguyên, Vua Trần bèn phong mĩ tự một vị: Thông minh tuệ trí hùng kiệt trác vĩ, thượng đẳng thần.

Lại đến đời Lê Thái Tổ dấy quân nghĩa ở núi Lam sơn. Bình lũ Mộc Thạch - Liễu Thanh giặc Minh, 10 năm dẹp yên được thiên hạ, lại bao phong mĩ tự một vị tế thế an dân, linh phù ngưng hữu, thượng đẳng thần.

Thinh vậy du - Tốt vậy thay

- Phụng khai ngày sinh, ngày hoá, và chữ huý nhất khiết không được mạo dụng.

Huý của vương: Chữ bên tả theo bộ thuỷ, bên hữu theo bộ quân chuẩn cho khu thượng trang Khả Mộ căn cứ vào ngày sinh Đức Thượng Đẳng Thần là ngày 8 tháng Giêng, chính lệ lễ dùng lợn đen và xôi rượu, xướng hát, đánh cờ, du tiên, các nghề trong 10 ngày.

- Ngày hoá Đức Thượng Thần là ngày 03 tháng 12 âm lịch chính lễ tuỳ nghi, xướng ca tịnh cấm.

Năm đầu niên Hồng Phúc Triều Lê, tháng mạnh xuân ngày tốt (1572) quan Hàn Lâm Viện Lễ, Đông các Đại học sĩ là Nguyễn Bính phụng soạn chính bản.

Năm thứ sáu triều vua Vĩnh Hựu tháng trọng thu ngày tốt (1740) quan lại bộ toà nội các lại tuân bản cũ phụng sao.

Người đăng: admin