Trang chủ Diễn đàn Tin tức Đăng ký Thư viện ảnh Hỏi đáp Video Giới thiệu Liên hệ Đăng nhập Xin chào
Danh mục
Thống kê
Đang online: 4,838
Truy cập hôm nay: 5,798
Lượt truy cập: 11,297,162
Hỗ trợ trực tuyến
Quảng cáo
SƠ LƯỢC TIỂU SỬ VŨ CÔNG THỦY TỔ ( 804 - 853 ) - Cập nhật 30/08/2013

SƠ LƯỢC TIỂU SỬ VŨ CÔNG THỦY TỔ

( 804  -  853 )

Theo các tư liệu nghiên cứu về lịch sử dòng họ Vũ- Võ Việt Nam, vào đời nhà Đường, khoảng đầu thế kỷ thứ 9, có một vị quan tên Vũ Huy người làng Mã Kỳ, huyện Long Khê, phủ Thường Châu, tỉnh Phúc Kiến. Sau đó, ông làm sớ dâng lên vua Đường xin nghỉ hưu. Ông Vũ Huy vốn tinh thông khoa địa lý phong thủy, vì vậy trên đường đi du ngoạn về phương Nam. Đến ấp Mạn Nhuế thuộc huyện Thanh Lâm đất Hồng Châu, nay là Thị trấn Nam Sách, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, Ngài thấy một thế  đất đẹp ở khu cánh đồng có 98 gò đất nhỏ bao quanh một gò cao và lớn, tựa như 98 ngôi sao chầu về mặt trời (cửu thập bát tú triều dương ). Cái gò ấy địa phương gọi là Đống Dờm. Theo thuyết địa lý - phong thủy nếu mộ táng ở đây con cháu sẽ phát về khoa bảng, công danh hiển hách. Cụ Vũ Huy quay trở về Phúc Kiến đưa hài cốt thân phụ sang táng ở Đống Dờm, rồi làm nhà ở tạm để trông nom ngôi mộ.

           Khi ấy ở làng Mạn Nhuế có một thôn nữ tên Nguyễn Thị Đức là con nhà nề nếp, tính tình đoan trang phúc hậu. Có lẽ do duyên trời đã định, nên gia đình cô thôn nữ đã chấp nhận lời cầu hôn của ông Vũ Huy.  Được hơn một năm, bà có thai, ông đưa bà trở về Phúc Kiến.

          Mùng Tám tháng Giêng năm Giáp Thân(804) bà sinh con trai. Ông bà đặt tên con là Vũ Hồn. Ngay từ thuở nhỏ, Ngài rất khôi ngô, tuấn tú. Vua Đường khen ngợi  cho là nhân tài, vì thơ văn hay, sách lược giỏi, nên xuống chiếu bổ dụng Tả Thị Lang Bộ Lễ - một chức quan khá trong triều đình - vì Bộ Lễ phụ trách lễ nghi, cúng tế và thi cử trong nước. Được 2 năm thăng chức Đô Đài Ngự Sử.

             Năm 841(Tân Dậu) đời Đường Vũ Tông, niên hiệu Hội Xương thứ nhất, Ngài được cử làm Kinh Lược Sứ thay Hàn Uớc. Trong thời gian ở An Nam, Ngài Vũ Hồn đã đi kinh lý và xem xét nhiều nơi, đồng thời để tâm chú ý việc tìm địa điểm tốt vì Ngài đã muốn chọn quê ngoại để định cư sau này. Ngài đã nhiều lần về Mạn Nhuế thăm mộ ông nội ở Đống Dờm, sau đó đã đi thăm tất cả các vùng lân cận. Một lần Ngài đến trang Lạp Trạch huyện Đường An thấy về phía tây thôn ấy có cánh đồng hoang, cỏ lau rậm rạp, rải rác có những gò đống tựa 5 con ngựa, 7 ngôi sao ( ngũ mã tiền triều, thất tinh hậu ứng)  hoặc những ao, mà dưới đáy có doi đất nổi lên như hình quả bút, nghiên mực, quyển sách… Theo kiến thức về địa lý- phong thủy, đấy là một kiểu đất đẹp rất tốt cho hậu thế của Trang Ấp này.

          Sau đó một thời gian, Ngài xin từ quan, Vua Đường chuẩn y. Ngài liền đưa mẹ sang An Nam định cư ở Lạp Trạch, vì theo Ngài:“ Người xưa được một ngày nuôi cha mẹ, dẫu làm đến Tam Công cũng không sướng bằng, ta nay còn có mẹ già, há nên tham giàu sang mà không nghĩ đến hiếu dưỡng hay sao?”

Ngài xây dựng cơ ngơi cho gia đình, rồi chiêu mộ dân cư ở rải rác các vùng xung quanh về làm ruộng,khai hoang, giúp đỡ họ tiền bạc để xây dựng nhà cửa.Ngài mở trường dạy học, bốc thuốc cho dân,lập nên một xóm nhỏ, đặt tên là Khả Mộ trang ( có nghĩa là ấp Đáng Mến), sau dân cư đông đúc thêm.Đời Trần đổi tên thành thôn Mộ Trạch (nay là thôn Mộ Trạch, xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương) dần dần thành một thôn ấp có văn hoá, có lễ nghĩa và làm ăn thịnh vượng.

          Do công đức to lớn của Ngài, nên dân làng Khả Mộ tôn kính Ngài như cha mẹ,đã xin với Ngài rằng: “Dinh cơ ngài hiện nay để ở, sau khi Ngài mất, dân làng sẽ dùng làm miếu để thờ phụng Ngài”. Ngài ưng cho, lại bảo rằng: “ Trang khu có hậu đạo với ta thì phải trọng lời di chúc của ta, mà ngàn năm thờ phụng”. Ngài lại cho thêm năm nén vàng, tậu ruộng ao để cung ứng cho việc tế tự, khỏi phiền dân đóng góp.

          Ngày Rằm tháng Tám năm Canh Ngọ (850) mẹ Ngài - cụ bà Nguyễn Thị Đức,  qua đời Ngài khóc than khôn cùng rồi rước linh cữu mẹ về táng ở xã Kiệt Đặc, huyện Thanh Lâm ( làng Kiệt Thượng,phường Văn An, Thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương ngày nay).      

          Năm 853 (Quý Dậu) năm ngài vừa đúng 49 tuổi, ngày mùng Ba tháng Chạp, ngài đang dạy học, thì thấy trong người khó chịu, rồi thiếp đi, không bệnh gì mà hoá. Trang dân và gia nhân bèn rước ngài lên xứ Đồng Cạn, một gò đất nhỏ trong cánh đồng phía tây bắc thôn trang để an táng.

Dân làng tôn Ngài làm Thành Hoàng, mới đầu thờ tại dinh cơ Ngài để lại, về sau làm thêm đình, miếu thờ cũng để ghi công Ngài vừa là người khai ấp Khả Mộ, vừa là người dạy dỗ đem học vấn, lễ nghĩa đến cho dân cư trong làng. Đồng thời cũng thờ Ngài như một ông Tổ đầu tiên của dòng họ Vũ - Võ nước Nam. Bốn mùa hương khói không dứt cho đến ngày nay.

          Sau khi Vũ công Thủy Tổ qua đời, đến lượt phu nhân cũng được con cháu an táng liền kề bên. gọi là “mộ song táng”. Vì vậy, đến nay khu gò đất táng di hài Ngài có tên Mả Thần. Mả Thần được tôn tạo, tu bổ vào năm 1993. Sau đó, có một số nhà  công đức đã mua thêm đất nới rộng và xây dựng mới rất hoành tráng,đường vào cũng được mở rộng và khánh thành vào đầu năm 2011. Năm 2012 tiếp tục xây thêm Tháp Bút và Nghiên Mực cùng vườn Tiến sĩ trong quần thể khu lăng mộ  của Thủy tổ Dòng họ Vũ- Võ Việt Nam trông vô cùng uy nghi và bền vững để lại cho đời sau chiêm ngưỡng. 

                                          VŨ HỮU CHÍNH tổng hợp

(Chánh Văn phòng HĐDH. Vũ – Võ phương Nam)

                                             Tháng 01 năm 2013

 

 

Ghi chú:

Hiện tại có 2 tượng đồng Vũ công Thủy tổ (mỗi tượng nặng khoảng 500 kg) do 6 gia đình các vị sau: Võ Văn Hồng, Vũ Khắc Đan, Vũ Duy Bổng, Vũ Văn Tiền, Võ Văn Minh và Vũ Thế Trường thành tâm cung tiến được an vị tại: Miếu thờ Ngài ở làng Mộ Trạch, xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương (Ảnh 1) và “ Từ đường Dòng họ Vũ-Võ phương Nam” khu 13, xã Long Đức, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai (Ảnh 2). ( xem video đại lễ an vị tường Thủy Tổ tại website : www.hovuvo.com ) (Ảnh: Vũ Hữu Chính)

 

Người đăng: admin