Trang chủ Diễn đàn Tin tức Đăng ký Thư viện ảnh Hỏi đáp Video Giới thiệu Liên hệ Đăng nhập Xin chào
KHỞI NGUỒN, LỊCH SỬ DÒNG HỌ VŨ-VÕ > ĐỊA DANH LỊCH SỬ

 

Cách Hà Nội hơn 300 km theo hướng tây bắc, dọc quốc lộ 4D qua yên bái, vòng vèo quanh co mới nhìn thấy phố xá. Đó chính là Phố Ràng, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Bảo Yên, huyện của ngõ phía nam tỉnh Lào Cai. Bề ngoài có vẻ bình an tĩnh tại, nhưng Phố Ràng đã trải qua bao biến cố, vì địa thế chiến lược phải gánh lấy sứ mệnh lịch sử bảo vệ trường tồn mảnh đất biên cương miền tây bắc gắn liền với vận mệnh tổ quốc.

Dấu tích lịch sử những thời đã qua là đô thống sứ Trần Tuyên Quang triều Lê,khoảng năm 1516- 1522 là căn cứ của hai anh em Vũ Văn Uyên và Vũ Văn Mật, còn có nhiều tên là thành Nghị Lang. Những hiện vật của thành Nghị Lang ngày nay đang được ngành văn hoá sưu tầm bổ xung vào kho bảo tàng và trưng bầy với hậu thế về lòng tự hào dân tộc của cha ông ta xưa.

Chi tiết

Thành cổ Nghị Lang còn được gọi là thành Nhà Bầu, của các chúa Bầu (Vũ Văn Uyên, Vũ Văn Mật và con cháu) được xây dựng từ khoảng thế kỷ 16 – 17. Thành cổ Nghị Lang gắn liền với truyền thống giữ nước của cha ông ta xưa chống quân Mạc. Hiện nay khu vực di tích thành Nghị Lang còn phát hiện được nhiều di tích, hiện vật có giá trị.

Chi tiết

Miếu được xây dựng vào năm Giáp Tý (1864) và hoàn thành cuối năm Bính Dần (1866) đời Tự Đức 19, sau khi Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông, các sĩ phu yêu nước lui về các tỉnh phía Tây Nam Kỳ tiếp tục kháng Pháp .

Hơn một thế kỷ qua, miếu được tu sửa nhiều lần cho đến ngày nay kiến trúc vẫn còn tương đối uy nghi và cổ kính. Trước khi và miếu qua một cổng Tam quan sừng sững. Theo con đường rợp bóng mát của hai hàng cổ thụ sẽ gặp một văn bia bằng đá do chính Phan Thanh Giản trước tác khắc bằng chữ Hán vào năm Tự Đức thứ 20 (1867).

Chi tiết

Công trình Văn Thánh miếu khởi công vào ngày 10 tháng 10 năm Giáp Tý 1864 (đời Tự Đức thứ XVII), hoàn thành cuối năm Bính Dần 1866. Cổng tam quan với ba tầng mái ngói dẫn vào bên trong di tích là con đường có hai hàng sao thẳng tắp. Trên con đường này trước gian chánh điện có bia đá tạc bài văn của cụ Phan Thanh Giản trước tác. Công trình Văn Thánh Miếu Vĩnh Long gồm có Văn Miếu và Văn Xương Các. Bên trong Văn Miếu thờ Đức Khổng Tử, Tứ Phối, Thập Nhị Triết (những người học trò xuất sắc của Khổng Tử). Tả Vu, Hữu Vu thờ Thất Thập Nhị Hiền.

Chi tiết

 

Văn Miếu Hưng Yên là Văn Miếu hàng tỉnh, còn gọi là Văn Miếu Xích Đằng, xây dựng năm Minh Mạng thứ 20 (1839), tọa trên một khu đất cao rộng gần 4.000m2, thuộc thôn Xích Đằng, phường Lam Sơn, thị xã Hưng Yên.

Hiện vật quý nhất của Văn Miếu là 9 tấm bia đá, trong đó 8 bia được lập năm Đồng Khánh thứ 3 (1888), một bia được lập năm Bảo Đại thứ 18 (1943) ghi danh các nhà khoa bảng Hưng Yên. Có 138 vị đỗ đại khoa được ghi khắc vào bia từ thời Trần đến năm 1919 - khoa thi cuối cùng khoa cử nho học, trong đó có 21 vị nay thuộc địa phận tỉnh Thái Bình (Phủ Tiên Hưng của Hưng Yên ngày đó sau thuộc Thái Bình).

Chi tiết

 

Cho đến hôm nay, vẫn có hai dòng ý kiến về thời gian ra đời của Văn miếu Trấn Biên (VMTB). Một dòng cho rằng VMTB được xây dựng từ khá sớm, năm 1715. Dòng thứ hai cho rằng mãi 60 năm sau, tức năm 1775, VMTB mới được ra đời.

Vì sao có sự chênh lệch khá lớn về thời gian xuất hiện VMTB trong các ý kiến trên? Sách Biên Hòa sử lược của Lương Văn Lựu, quyển I (Trấn Biên cổ kính, 1972) có viết: "ở Biên Trấn, "Văn miếu" được xây cất tại thôn Tân Lại (Tân Thành), huyện Phước Chính (Đức Tu), cách trấn thành 2 dặm (ngàn thước) về phía Tây Bắc. Địa điểm này do quan Trấn thủ Nguyễn Phan Long và ký lục Phạm Khánh Đức lựa đất, năm ất Mùi (1775) đời Duệ Tông hoàng đế Phúc Thuần" (trang 65). Có lẽ đây là điểm xuất phát của những ý kiến cho rằng VMTB xuất hiện năm 1775, vì trước ông Lương Văn Lựu, không ai xác định VMTB ra đời năm 1775 cả. Điều đáng lưu ý là các sách xưa (Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức và Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn) khi ghi chép các sự kiện đã dùng âm lịch. Vì thế, các sách trên khi nói về thời điểm ra đời của VMTB chỉ ghi là "năm ất Mùi". Các năm 1715 và 1775, theo âm lịch, đều là ất Mùi.

Chi tiết
Trang:1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10« Back · Next »