MẤY NÉT VỀ LÀNG NGỌC CỤC
Làng này thuộc Tổng cũ, tên Ngọc Cục, huyện Đường An gồm có 4 làng gần nhau, chung 1 tổng là: Đào Xá, Hà Xá, Hoa Đường và Ngọc Cục
Chữ Hán: có nghĩa là “bàn cờ bằng ngọc, ván cờ chơi bằng những con cờ làm bằng ngọc. Cuộc chơi đồ bằng ngọc. Đều gọi là Ngọc Cục” (Hán Việt Tự điển).
Xét trong sách thống kê các làng xã xưa đời Hậu Lê ở Đàng Ngoài có đến 2 Tổng cùng tên Ngọc Cục, 1 ở huyện Đường An, Hải Dương; 1 ở Huyện Yên Dũng thuộc Phủ Lạng Giang, xứ Kinh Bắc, bay là tỉnh Bắc Giang. Đồng thời có 5 xã cùng tên là Ngọc Cục ở Bắc Bộ:
1. Xã Ngọc Cục: thuộc huyện Đường An, Hải Dương (tục gọi Làng Guộc)
2. Xã Ngọc Cục: thuộc huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang (Bắc Giang)
3. Xã Ngọc Cục: thuộc huyện tổng Hàng Cung, huyện Giao Thuỷ, Phủ Xuân Trường, trấn Sơn Nam Hạ, tức Nam Định
4. Xã Ngọc Cục: thuộc huyện Tổng Vân Cầu, huyện Yên Thế, phủ Lạng Giang, xứ Kinh Bắc. Nay là Phủ Lạng Thương, Bắc Giang.
5. Xã Ngọc Cục: thuộc huyện Tổng Chu Điện, huyện Phượng Nhãn, phủ Lạng Giang. Nay là huyện Lạng Giang, Bắc Giang.
Theo lời kể của các vị cao niên ở 4 xã Ngọc Cục tại các huyện Yên Thế, Yên Dũng, Phượng Nhãn và Giao Thuỷ (Hành Cung) thì Tổ tiên đều là họ Phạm, Đào, Vũ, Bùi, Nguyễn … ở làng Ngọc Cục huyện Đường An đã bỏ làng, di cư đông nhân khẩu đi đến 4 làng Ngọc Cục “chi nhánh” kia sinh sống.
Nhà giáo uyên bác quê gốc ở làng Lương Ngọc (đã quá cố, chuyên khảo về họ Vũ ở Bình Giang) là cụ Vũ Huy Chân có cha làm chức sắc trong làng Lương Ngọc. Nên cụ đã hiểu rành rẽ về lịch sử thành lập làng của cụ hơn ai hết. Cụ Chân cho biết: Làng Ngọc Cục đã có từ đời Nhà Trần, khoảng đời Vua Trần Nhân Tông làm Thái Thượng Hoàng và vua Anh Tông lên ngôi báu (1293 – 1308 – 1314). Có lẽ lúc đó thế đất làng còn có nhiều gò đống, cây cối um tùm, qua con mắt nhà phong thuỷ cho biết: cảnh quan đẹp như một bàn cờ đã bày ra các quân cờ thế. Vì vậy, tiền nhân đặt tên cho ấp thôn đó là Ngọc Cục?
Theo cố GS Chân, ban đầu có vài gia đình ở các làng quanh đó là họ vũ ở bên làng Chằm Thượng, họ Phạm ở Phù Ủng (là 2 làng có từ lâu đời hơn cả) di cư đấn nơi đất hoang sơ, nhiều gò đống, khai canh lập nghiệp và đặt tên là Ngọc Cục (có thề ban đầu là 1 xóm thôi?). Về sau, qua thời Trần, Hồ, Minh thuộc (1293 – 1427) dân cư các nơi tụ về sống, nên Ngọc Cục đông nhân khẩu lên. Và đến triểu Lê Sơ (1428 – 1527) khá hơn. Vì thế, đến thời Nhà Mạc cầm quyền (1527 – 1592), có một khu đất có lẽ là đất trồng hoa cũ của bà Phi học Phạm làng Phù ủng, vợ Vua Trần Minh Tông (1314 – 1329). Bà là con gái Ngài Điên Soái Phạm Ngũ Lão có lập chùa ở gần con sông giáp đới ngạn Ngọc Cục, Phù Ủng. Nơi đó Bà cho gia nhân trồng hoa, có tên nôm là “traị bông” lấy hoa cúng Phật và trang trí nơi Bà cư trú. Dần dần có nhiều người đến phục dịch Bà cho việc trồng hoa. Rồi đem gia đình vào ở đó thành ấp ủng Hoa. Sau nhân số gia tăng, lập ra Thôn Bông, có tên chữ là: Ủng Hoa Đường. Thôn này thời Nhà Lê Sơn và đầu thời Mạc (1428 – 1578) là 1 xóm trồng hoa của xã Ngọc Cục. Và đến năm 1578, lúc đó ở thôn Bông đã có nhiều Nho sĩ, sĩ tử đi thi đỗ cao như Đoàn Quảng Phu, trúng Tiến sĩ từ năm 1514. Bùi Đình Kiên, Phạm Điển, Trương Hữu Phỉ gốc Ngọc Cục cũng đỗ Tiến sĩ trong thời nhà Mạc. Cho đến năm 1578, thôn Bông được tách ra thành 1 xã Ủng Hoa Đường độc lập, không thuộc xã Ngọc Cục nữa. Sau đó, đến thời Lê Trịnh (Trung hưng) 1593 – 1788 làng Hoa Đường đã có tên như thế (bỏ chữ Ủng = có nghĩa là Ôm, tụ họp đông người) để nghe cho thanh tao.
Như vậy, xã Hoa Đường ban đầu chỉ là 1 thôn của xã Ngọc Cục mà ra. Người đỗ sớm nhất mở đầu cho làng Ngọc Cục là ông Tiến sĩ Vũ Thiệu (1470 – 1528)? Đỗ Tiến sĩ đời Vua Lê Thánh Tông, Quí Sửu (1493) làm quan đến chức Giám sát ngự sử nhà Lê (Chiêu Tông 1515 – 1526). Vì ông chống lại Mạc Đặng Dung lấy ngôi nhà Lê (Cung Hoàng) năm 1527. Có lẽ ông chết do bị giết hoặc tự vẫn? Nhưng tương truyền nhà ông ở thôn Bông thuộc xã Ngọc Cục. Nên từ 1578 – 1599 có thể xã Hoa Đường (tức sau là Lương Ngọc) tuy đã biệt lập xã với Ngọc Cục, mà vẫn thờ chung 1 Thành Hoàng của Ngọc Cục. Đến khi Nhà lê - Trịnh dẹp tan Nhà Mạc từ 1592 – 1599. Có lẽ bấy giờ xã Hoa Đường mới dâng sớ lên Vua lê, xin truy tặng cho ông Tiến sĩ Vũ Thiệu làm vị phúc Thần Thành Hoàng xã Hoa Đường.
Có thông tin lại cho rằng: Ông Vũ Thiệu được vua Mạc Mậu Hợp truy tặng bao phong do dân làng Hoa Đường đã khai duệ hiệu cho ông là Ngọ Lang Đại Vương, dấu biệt tên thật là Vũ Thiệu đi? Rồi về sau, Nhà Mạc mất, Thành Hoàng chỉ có mỹ tự (chữ đẹp) là Ngọ Lang. Tuy các cụ có Nho hoc biết Thành Hoàng là Tiến Sĩ Vũ Thiệu. Nhưng theo tục lệ xưa cấm phạm huý Thành Hoàng, chỉ gọi bằng Mỹ hiệu Ngọ Lang Đại Vương. Rồi chỉ trong 50 năm chiến tranh và thay đổi xã hội chính trị (1945 – 1995). Tội nghiệp các cụ, các ông Lương Ngọc không biết tên huý Thành Hoàng Ngọ Lang là ai? Đã đi nhờ người kiến thức lịch sử kém, lỗ mỗ chữ Hán về thôn Lương ngọc đọc bài Vợ Thành Hoàng còn giữ được. Theo ông Vũ Thế Khôi (gốc người Lương Ngọc, nhà nghiên cứu sử phả, có tiên tổ 8, 9 đòi bỏ làng ra sống ở Hà Nội – Thăng Long từ thời Hậu Lê) kể cho tôi nghe: “Có 1 ông nào đó, đọc bài vị có duệ hiệu Đức Ngọ Lang Đại Vương ở Lương Ngọc đã phán rằng: Vị Thành Hoàng này xuất thân đi chăn ngựa,! Cẩu thả và kém cỏi đến thế. Nhờ ông Khôi có thông tin từ Gia phả họ Vũ làng Lương Ngọc của cụ Vũ Huy Cận soạn từ Gia phả họ Vũ làng Lương Ngọc của Cụ Vũ Huy Chân soạn từ 1972 tại Sài Gòn. Do tôi cung cấp cho ông Khôi trong nửa đầu thập niên 90 của thế kỷ XX.
Bấy giờ các cụ, các ông ờ làng Lương Ngọc khi trùng tu miếu đình Thành Hòang Lương Ngọc, nhờ ông Khôi chỉ dẫn mới biết thành hòang khả kính là tiến sĩ Vũ Thiệu đời Lê Sơ.
Trở lại giới thiệu làng Ngọc Cục là một làng cổ ở huyện Đường An, có thể đã có từ đời Trần (1293)? Lúc đó còn hoang sơ, cây cối um tùm, nhiều gò đống, ao đầm và luồng lạch nên dân cư còn thưa thớt và trình độ văn hóa còn thấp kém lạc hậu. Nhất là vấn đề tín ngưỡng đã thờ cúng yêu ma, hổ báo… và phong tục còn lạc hậu, man rợ. Phạm Đình Hổ (1768-1838), một nho gia, một nhà văn lớn, một vị quan văn học lớn thời đầu nhà Nguyễn thế kỷ 19, quê ở làng Đan Luân (Loan) gần với làng Ngọc Cục. Ông hiểu rộng biết nhiều về lịch sử , địa lý nước ta, nhất là huyện Đường An và trấn Hải Dương của ông. Trong sách “Vũ Trung Tùy Bút” do ông viết ra khoảng cuối thời Tây Sơn và đầu thời Gia Long (1801 – 1810)? Ông đã viết thuật lại 1 chuyện liên quan đến làng Ngọc Cục. Đó là truyện thờ Thần Hổ của nhân dân làng Cổ Ngọc Cục đã có từ trước năm Canh Thân (1800) đời Tây Sơn Cảnh Thịnh. Tác giả họ Phạm là một Nho gia lỗi lạc, làm quan đến chức Quốc Tử Giám Tế Tửu (như Viện Trưởng Viện Đại Học Quốc Gia ngày nay), khi viết ra câu chuyện có phần rùng rợn này, chắc chắn ông có những cơ sở nhất định chứ không thể bịa đặt (xin trích nguyên văn bản dịch quốc ngữ của cụ Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, đăng trên báo Nam Phong trước 1930. Được nhà xuất bản Trẻ, TPHCM 1989 in lại do ô. Nguyễn Quản Tuân và Nguyễn Lộc giới thiệu. Tiểu truyện Thần Hổ ở trang 128, ) Lời kể của tác giả Phạm Đình Hồ:
“Làng Ngọc Cục ở huyện ta (Đường An – Bình Giang nay) khi xưa truyền rằng vẫn thờ yêu (tinh) Hổ, phải bắt (trộm) người làm vật hy sinh để cúng. Cứ mỗi năm, trong làng phải một người làm chủ tế. Người chủ tế phải lừa dỗ một hành khách nào đi một mình thì bắt lấy, giam ở hầm sâu dưới đất và đem mài da gót chân người đi cho mỏng đi (thành què không đi trốn thoát). Đến ngày tế Thần Hổ thì giết người đó, thái nhỏ, trộn lẫn vào thịt trâu thịt bò mà cúng. Cúng xong rồi, thừa huệ (lộc cúng thần) cả làng ấy cùng ăn. Người nào gắp được miếng thịt người thì hí hửng lấy làm rất mừng, cho là cái điềm năm ấy được thuận lợi (làm ăn khá giả).”
“Sau đó, (có 1 lần) người chủ tế bắt giam được một người ở hầm dưới đất. Thế nào, người ấy nhân lúc chủ nhà đi vắng, thoát ra khỏi hầm. Nhưng gót chân bị mài mỏng nên không đi được, đành phải bò lết khúm núm mà trốn đi. Người ấy đến được trấn thành, trình báo, tố cáo các sự ác ấy. Người làng Ngọc Cục (lúc đó) phải chạy chọt, đút lót quan Trấn Tướng mới yên chuyện. Nhưng từ đấy trở đi phải giết trâu bò thay giết người. Nhưng thỉnh thoảng có năm nào bắt được người nào đi một mình, cũng vẫn đem đi giết để làm thịt mà tế lễ, ăn uống. Đó là cái tục “Nhâm Ngao tể thần Xương Cuồng” (ở bên Tàu xửa xưa) vậy. Từ năm Canh Thân (1800) trở về sau, thói tục lệ xấu đó mới bỏ. Thế nhưng hành khách đi qua làng Ngọc Cục đó vẫn còn khiếp sợ”. (Sách đã dẫn, trang 128).
Xem đoạn văn trên, chúng ta thấy, chuyện thờ Thần Hổ và tục ăn thịt người ở làng Ngọc Cục chỉ là 1 hủ tục, do mê tín dị đoan mà gây ra sự man rợ ở đám chức sắc, hương ký của làng này trong 1 thời gian nào đó. Mà lại là 1 hủ tục dấu kín trong làng thôi. Rõ ràng, dân làng biết đó là 1 thói xấu và ác độc biết sợ pháp luật. Mà phải đến thời Tây Sơn mới dứt nổi! Thế mà làng đó có nhiều Nho sĩ, Nho gia khoa bảng và có nhiều võ quan cao cấp nữa. Sao không răn đe, chỉ bảo đám dân làm việc bất nhân để thờ con Hổ (cọp) mà phạm tội giết người đi qua làng?
Điều này, chúng tôi thắc mắc có hỏi cụ giáo Vũ Huy Chân thì cụ bảo rằng: “tôi ở Lương Ngọc cạnh đó, có nghe các cụ xưa kể như thế, mà sách của cụ Phạm Đan Loan cũng viết như thế từ đầu triều Nguyễn. Cụ kể: “làng Ngọc Cục, Lương Ngọc, Phù Ủng, Đan Loan là 4 làng ở huyện Bình Giang (Đường An) từ xưa, thời Mạc (1527 – 1592) và thời Lê Trịnh đều “phát ngoại”. Nghĩa là dân làng bỏ đi xa làm ăn sinh sống thì khá giả và ăn học, làm việc thành công hơn là ở lại sống trong làng. Xưa kia, có thời (phong trào) bảo nhau bỏ quê hương ra Thăng Long, Hà Nội sống thì đỗ đạt và buôn bán. Làm nghề đều giàu có. Hàng năm, các cụ đều về làng thăm mộ tổ tiên lễ bái đình, chùa trong các ngày giỗ, ngày tết.Xong lại đi khỏi làng mà tiếp tục sinh sống từ đời này qua đời kháv. Thậm chí, dân 4 làng trên, về thời Nguyễn (1802-1945) không về làng sinh hoạt tín ngưỡng, đóng góp nữa. Dân 4 làng ở Hà Nội đã lập “vong từ” (đền thờ vọng về quê cũ, nhớ quê cũ) sinh hoạt riêng như 1 quê hương thứ 2 ở Hà Nội. Như dân Đan Loan có phường hội nhuộm và bán vải ở phường Đông Các (hàng Đào) có đình thần riêng thờ ông bà thành hòang Triệu Xương và ngài Độc Tẩu Thiền Sư (người có công nuôi 7 con trai nghĩa tử mang 7 họ khác nhau: Phạm, Đào, Lê, Đòan, Vũ, Dương, Bùi). Ngài Độc tẩu chỉ là 1 vị tổ công đức thờ ở chùa Sưng Phúc. Vì ngài có công gây dựng 7 họ trên, vốn từ xã Minh Luân (sau gọi là Hòa Loan vì tránh tên húy bố đẻ vua Gia Long là Phúc Luân, và tên húy vua Hàm Nghi 1885 là Phúc Minh) dời chỗ ở về 1 khu đất đẹp, có tên là “thôn ông Độc”vào thời nhà Mạv (1527-1592). Rồi sau đó đặt tên là làng Đan Luân (cái xe màu đỏ). Từ năm 1802 đến nay mới có tên là Đan Loan. Vốn xưa là xã Minh Luân, tục gọi là “kẻ lòn”. Sau thành Tổng Minh Luân, đổi ra Tổng Hòa Lan từ năm 1885. Đó là lời dẫn giải của ông Phạm Đình Hổ trong sáh Đường An Đan Loan Phạm Gia Thế Phả. Ông còn cho biết vị thành hòang làng Minh Luân (Hòa Loan) là một vị phúc thần họ Cao, tên là y, người Việt sống vào thời nhà Lý (1010-1225) quê ở Minh Luân, sang nước Tàu lâm chức kiểm Hiệu Thượng Thư. Sau được phong tặng làm Thành Hòang là Linh thông Cảm Ứng, Cương Chính đại vương. Tục gọi: “quan thừa tướng”. Như thế 2 làng Hòa Loan và Đan Loan thờ 2 tầhn khác nhau. (trích tư liệu trong sách đã nói trên trang 219-228).
Làng Phù Ủng có đền thờ vọng ở phố Lý Quốc Sư, Hà Nội.
Làng Ngọc Cục, thờ Thành Hòang là một vị tướng đời An Dương Vương (208 đến 179 trước Công Nguyên) có mỹ hiệu là Trí Nghiêm Chiêu Vũ Thượng Tướng Quân và Phục Hổ vũ tướng quân (không rõ là ai). “Thành Hòang trí Nghiêm Chiêu vũ” là người cầm quân chống đánh lại quân của Triệu Đà khi xâm lược nước Âu Lạc năm -179 truớc CN. Một vị Thành Hòang nữa được dân làng Ngọc Cục thờ phụng là ngài Phạm Trí, một võ tứơng có công tham dự đánh quân Nguyên Mông thế kỷ 13.
Đình miếu thờ các Thành Hòang làng Ngọc cục đã đựơc xây dựng thời vua Lê Thánh Tông, đời Hồng Đức (1470-1497). Xưa trước năm 1945 và 1954 là một cụm di tích tín ngưỡng Đình Miếu Ngọc Cục gồm 3 lớp: Tiền bái gồm 7 gian, Trung Đình gồm 3 gian và Hậu Cung cũng 3 gian. Cụm đình miếu này là xây theo hình chữ “công” tại 1 khu đất đẹp ở làng.
Sau năm 1946-1975 đã bị tàn phá trong lúc đánh nhau với Pháp đến càn quét từ 1946-1954. Rồi thời cải cách ruộng đất, người ta cũng chẳng bảo tồn, còn tàn phá tiếp. Tiếc thay!
Làng ngọc cục còn thờ 8 vị tiến sĩ và 2 võ tướng.
1. Vũ Thiệu, đỗ tiến sĩ năm Quí Sửu (1496) năm Hồng Đức 24 đời vua Thánh Tông, làm quan đến chức Đô Ngự Sử đời vua Chiêu Tông và Cung Hòang (1516-1527). Ông chống việc Mạc Đăng Dung lên ngôi vua và tuẫn tiết. Về sau, thời Lê trung hưng (1600-1788) dân làng Hoa Đường (nay là Lương Ngọc) thờ ông Vũ Thiệu làm thành hòang. Đây là tiến sĩ đầu tiên của làng Ngọc cục vậy.
2. Phạm Duy Viên, đỗ năm Kỷ Mùi (199) năm Cảnh Thống 2 đời vua Lê Hiến Tông, tam giáp tiến sĩ làm quan Lục Sự.
3. Trương Hữu Phi, đỗ Nhị giáp tiến sĩ khoa Tân Sửu (1541) đời vua Mạc Phúc Hải (Tuyên Tông) làm quan đến chức Thượng thư, hàm Thiếu bảo, tước An Quận Công.
4. PhẠm Điển, sinh 1531-mất 1591, năm 38 tuổi 1569 (Mậu Thìn) đỗ Tam giáp tiến sĩ niên hiệu Sùng Khang 3 đời vua Mậu Hợp (Mục Tông).
5. Bùi Đình Kiên, sinh 1544, đỗ Nhị giáp tiến sĩ năm Đinh Sửu (1577) lúc 34 tuổi làm quan đến chức Giám sát ngự sử.
6. Phạm Liễn, sinh năm 1584 (đỗ thủ khoa Đinh Sửu 1637), là con út của cụ Nghè Phạm Điển đời Mạc. Kém cha 53 tuổi và đỗ tiến sĩ rất muộn, lúc tuổi 54 (1637), đỗ hàng tam giáp. Làm quan Công bộ thị lang, lúc mất được truy tặng Hộ Bộ Hữu Thị Lang. Làng Ngọc Cục sau đúng 60 năm mới lại có tiến sĩ (1577-1637).
7. Phạm Hữu Dung, sinh năm 1652, từng đỗ khoa sĩ Sĩ Vọng và năm 29 tuổi thi đỗ tam giáp tiến sĩ năm Canh Thân (1680). Làm quan đến chức cấp sự trung.
8. Đào Tuấn Ngạn (1639-1718), lúc 45 tuổi mới đỗ Tam giáp tiến sĩ khoa Quí Hợi (1683) niên hiệu Chính Hòa 4, đời vua Lê Hi Tông. Làm quan đến chức Tham Chính, Thái Thường tự Khanh, tước Nam. Ông về trí sĩ và thọ 80 tuổi.
Ngoài ra, làng Ngọc Cục này từ triều Lê Sơ (1428-1527) qua triều nhà Mạc (1527-1592) và triều Hậu lê (1592-1788) đến triều Nguyễn (1807-1915) còn có gần 20 ông Hương Cống, Cử Nhân thành đạt. Đây là 1 làng khoa bảng và có 1 bề dày truyền thống Nho học ở huyện Đường An. Đa số, các vị danh nhân khoa bảng từ xưa đến triều Nguyễn đều ra Hà Nội làm ăn và định cư từ thời xa xưa lúc còn là Tăhng long. Chỉ có lúc hiển danh mới quay về nhà Ngọc Cục khao vọng, lễ bái đình miếu và từ đừơng. Làng này họ Phạm lớn hơn cả và đỗ đạt, làm quan nhiều hơn các họ khác.
Từ giữa thế kỷ 20, Từ Miền Nam, chúng tôi nghe các cụ quê gốc ở Phù Ủng, Họach Trạch, Lương Ngọc, Đan Loan, Mộ Trạch, Mi Thự, Thì (Tuyển)Cử, Đình Tổ, Châu Khê, Kẻ Sặt, Hà Xá… thuộc huyện Bình Giang, di cư vào Nam (Sài Gòn) từ năm 1954-55, kể chuyện ở các buổi họp mặt tại trụ sở “Bắc Việt Tương Tế Hội” ở số 36 đường Hiền Vương quận ba (Sài Gòn) rằng: “ở vùng quê Bình Giang-Đường An chúng tôi có xã Ngọc Cục là 1 làng cổ thuộc loại “Đại Linh Nhân Kiệt” thế đất (phong thủy) rất đẹp. Thời nào cũng có đến 8 ông nghè, 18 ông Cống cả văn lẫn võ và nhiều võ quan, võ tướng cao cấp. Nhưng các vị thành đạt ở xã Ngọc Cục, toàn sống ở các tỉnh thàng khác và kinh đô Thăng Long. Khi đăng khoa hay vinh hiển danh phận rồi mới trở về làng Ngọc Cục khoa vọng, thăm mộ tổ tiên, lễ tạ ơn Thành hoàng bản thổ. Xong lại ra di làm việc công.
Sở dĩ không sống ở trong làng vì bận việc quan (công tác) ở Thăng Long và các trấn. Một phần, dân làng này thường bạc nghịch, hay tụ tập bọn vô lại, du thử du thực đi cướp trộm các làng trong huyện. Nên nhà có máu mặt không dám ở trong làng sợ mang vạ. Một phần tục lệ làng Ngọc Cục xưa có nhiều hủ tục, bắt dân nhân trong làng đóng góp phiền hà. Một phần nữa tiếng đồn xấu về làng này bắt người khách lạ qua làng giết chết, xẻ thịt cúng tế thần hổ rồi chia nhau ăn thịt người. Dân lương thiện trong làng nhất là các gia đình nho học đã bỏ làng đi xa làm ăn. Thậm chí, nhiều gia đình họ hàng rủ nhau di cư tới các trấn xa như Kinh Bắc, Sơn Nam, Lạng Giang (Bắc Giang) lập ra mấy làng cũng có tên Ngọc Cục như làng cũ. Nhiều đại gia ở luôn tại Thăng Long và con cháu có điều kiện học hành thi cử và làm quan thuận lợi. Phụ nữ Ngọc Cục buôn bán làm ăn tốt ngòai làng (đi xa) hơn là ở làng, nên cũng bỏ làng đi luôn.
Tháng 5/2006, chúng tôi ( gồm: Vũ Hiệp, Vũ Tá Lâm, Vũ Huy Thuận, Vũ Huy Căn và Vũ Hữu Chính) về Bình Giang Du khảo về họ Vũ ở các làng nổi danh. Chúng tôi 5 người, ghé thăm làng Ngọc Cục, gặp được một cụ họ Vũ và ông con trai trong làng nay. Sau khi hỏi han về tình trạng gia phả họ Vũ xưa và di tích từ đường Vũ tộc. Cụ họ Vũ tâm sự về thanh niên Ngọc Cục trước đây ngỗ ngược, đàn đúm buôn lậu, lười lao động, phá phách, một số nghiện ngập, rượu chè cờ bạc. Làng xóm càng nghèo, chính quyền thôn, xã chấn chỉnh mãi mới tạm ổn. Hiện nay đã khá hơn trước. Rồi cụ thở dài, chép miệng nói: “làng tôi xưa nay có một số người sống bừa bãi, coi thường pháp luật và đạo lý, làm tai tiếng với các làng xã trong huyện Bình Giang nhất là đám thanh niên hư hỏng. Cho nên, gia đình khá giả đã bỏ làng ra các thành phố Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nội, Hải Phòng làm an và sin sống yên ổn hơn…”
Chúng tôi xin ghi lại câu chuyện qua dư luận xưa và nay về một “mảng tối” ở làng ngọc Cục vốn có. Nhưng có lẽ đó chỉ là “một con sâu làm rầu nồi canh” thôi! Đa số bà con Ngọc Cục từ xưa đến nay đều là người chăm chỉ làm việc, cày cấy và có cuộc sống chất phác.
Tóm lại, Ngọc cục là một làng cổ, thời Lê Sơ, thời Mạc. thời Hậu Lê có nhiều người khoa bảng, làm quan trị dân, giúp nước. theo sử liệu, có 8 ông tiến sĩ,18 ông hương cống và cả chục ông võ tướng của nhiều triều đại.
Thời Nguyễn (1802-1945), nhân tài Ngọc Cục về mặt khoa bảng nho học không có 1 ai đỗ nổi cử nhân, chứ đừng nói là tiến sĩ. Có thể có một vài ông quan võ phò nhà Nguyễn như dư luận thông tin cho biết (nhưng chưa kiểm chứng)? Từ sau 1945 đến nay không rõ, chỉ có thôn làng này rõ mà thôi. Như thế, làng Ngọc Cục thực sự suy vi, kém hẳn dưới thời cuối Hậu Lê, tây Sơn và Nguyễn triều (từ 1685 – 1945) trong 260 năm không còn bóng dáng khoa bảng quan chức lớn nữa. Trong khi có, các làng giáp cận cùng Tổng Ngọc Cục như Lương ngọc, Đào Xá, Hoạch Trạch…thì khoa bảng, quan lại vẫn tiếp tục nối dòng vinh hiển nổi tiếng toàn huyện Bình Giang, nức danh cả Hà Thành (Thăng Long) và triều đình Huế.
Nên biết qua, từ đầu thế kỷ 20, trở về trước, trên ấp thôn, xã còn có cấp Tổng, thấp hơn cấp Huyện 1 bậc. Huyện Đường An (tức Bình Giang nay) có 10 Tổng. Trong đó có tổng Ngọc Cục gồm 4 xã lớn là: Ngọc Cục, Hà Xá, Hoa Đường (nay là Lương Ngọc) và Ngọc Xá. Có lẽ tên xã Thúc Kháng là tên mới có từ sau năm 1945 đến nay? Rõ ràng làng Ngọc Cục là 1 làng có tiếng xưa và có từ lâu đời hơn cả, nên mới lấy tên làng đặt cho Tổng. Giới trẻ ngày nay không nghiên cứu nhiều, chắc không biết rõ các điều chúng tôi viết ở trên.
Một điều nên biết, họ Vũ ở làng Ngọc Cục có sớm nhất, cùng họ Phạm, họ Bùi, so với các họ khác: Trương, Nguyễn, Đào, Lê…đã đến sau. Họ Vũ phải có mặt vào cuối đời Trần, Hồ (khoảng 1390 – 1407) thì đến triều Lê Thánh Tông mới có ông Vũ Thiên đỗ Tiến Sĩ mở đầu khoa bảng cho làng này. Sau 4 đời lập nghiệp ở đó, năm 1493 ông đỗ Tiến Sĩ và ra làm quan, chống Mạc Đăng Dung mà chết.Về sau, dân làng Lương Ngọc tôn thờ ông làm Thành hoàng. Chứng tỏ, xưa kia 2 làng là một.
Cụ Vũ (Vũ Hiệp sưu khảo)năm 2006