Trang chủ Diễn đàn Tin tức Đăng ký Thư viện ảnh Hỏi đáp Video Giới thiệu Liên hệ Đăng nhập Xin chào
KHỞI NGUỒN, LỊCH SỬ DÒNG HỌ VŨ-VÕ > ĐỊA DANH LỊCH SỬ

Thú thật, tôi đã có nhiều năm chuyên khảo gia phả nhiều họ nước ta: NGUYỄN, LÊ, TRẦN, PHẠM, ĐẶNG, TRỊNH, HOÀNG, QUẢN, TÔ, ĐINH, và nhiều nhất là họ VŨ, VÕ. Tôi đã hoa mắt và rối óc không thể nào nhớ xuể NGŨ CHI, BÁT PHÁI có bao nhiêu vị, từ đời đầu nhà TRẦN, thế kỷ XIII (13) đến giữa thế kỷ XVIII (18). Đúng là chỉ đọc cho biết đại cương khái quát thôi, chứ muốn tìm thê thứ người nào họ VŨ ở làng CHẰM Thượng hiện nay thì phải có cách đọc phả chuyên nghiệp mới biết được. Nhất là người ngoài làng MỘt Trạch như tôi, dễ gì mà khảo sát nổi?

Chi tiết

Xưa kia, các làng quê Việt Nam trước năm 1945 đều có Văn Chỉ để thờ các Thánh Nho, Tứ phối, Thập Triết cùng các vị tiên Hiền, tiên Nho và các cụ trong làng có chữ nghĩa, phẩm hàm Văn Giai (quan Văn), do triều đình phong cấp cho (như Thị Lang, Hồng Lô Thái Bảo, Hàn Lâm, Bát phẩm, cửu phầm Văn Giai, Bá Hộ …) mà có công với làng, đã khuất. Chỉ trừ các làng Công Giáo theo Tây, theo đạo Chúa thì không có đình, Miếu, Chùa, Am, các Từ Đường. Vì các Cha cố ngoại quốc cuồng tín, hiểu sai thờ Thành Hoàng, thờ Tiên Nho, thờ tổ tiên là tôn giáo nên cấm “con chiên bổn đạo” không được lễ lạy tổ tiên, ông bà trong ngày giỗ kị, cắm thắp hương, cúng vái. Huống chi Lễ Giỗ Tổ Họ, Thành Hoàng, Thánh Nho Hiền. Vì Thế, thời Pháp thuộc (1864 – 1945 – 1954) cộng đồng xã thôn Việt Nam đã coi các “làng có Đạo” như dị vật, vong bản; bị các Nho gia và đa số dân quê ghẻ lạnh, tránh xa, coi như kẻ thù. Vì thế có nhiều chuyện xích mích gây mất đoàn kết Lương Giáo, chỉ vì Tín ngưỡng dân tộc bị hiểu lầm. (May sau năm 1960, Tòa Thánh La Mã thấy sai lầm, sửa lỗi, cho thắp hương thờ gia tiên và được ăn giỗ, lễ lạy ông bà, cha mẹ đã khuất). Nên làng theo Đạo, không có Văn Chỉ!

Chi tiết

Là những người dạy học, đã làm công việc dạy Sử và nghiên cứu Sử học cổ đại Việt Nam, cũng như sưu khảo về gia phả học nước ngoài. Nhiều năm chuyên khảo về họ Vũ, Võ nói chung và dòng họ Vũ làng Mộ Trạch nói riêng, chúng tôi đã thắc mắc và băn khoăn nhiều về một số danh tính nhân vật được coi là khai tổ họ Vũ ở làng Chằm (Mộ Trạch), Hồng Châu (tức Hải Dương xa xưa). Đó là ông Vũ Nạp (là khởi tổ thứ nhất dòng họ Vũ lớn nhất và cũng danh giá nhất trong số các dòng họ Vũ khác làng Mộ Trạch). Theo “Mộ Trạch Vũ tộc Thế Hệ Sự Tích” ông Vũ Nạp được ấm phong hàm Tăng Thống, trong “Đinh Từ Tự Điển” được thờ hàng đầu trong số 179 vị truyền giáo hữu công, do cụ dạy con đỗ đại khoa. Trong “Xuân Diên Tử Điển” làng Mộ Trạch, ông Nạp cũng được thờ ở hàng thứ 7 trong tổng số 366 vị được thờ ở đình làng. Vậy mà bên cạnh danh tính Vũ Nạp, ông còn được một số vị nghiên cứu cho là ông chính là Vũ Vị, đỗ Ất khoa, khoa thi thông tam giáo tháng 8 năm 1247 triều Trần; Rồi ông Nạp cũng chính là Vũ Tướng Quân, tước Đồng Giang Hầu, phó tướng của Hoàng Tôn Trần Quốc Bảo, tham gia đánh quân Nguyên trên sông Bạch Đằng năm 1288, sau đó cụ lấy vợ lần thứ hai, và lập ra hai chi Họ Vũ ở Tràng Kênh và Dưỡng Động Hải Phòng ngày nay? 

Chi tiết

Vì vậy, trong những năm tháng cuối đời còn lại, khi tôi đã sắp tròn 90 tuổi, nhờ ơn Tiên Tổ ít nhiều theo đòi nghiên bút mà võ vẽ năm ba, đôi phần chữ nghĩa. Nay xét thấy, những bút tích tiền nhân để lại, biết mà không lưu lại, làm mất đi những di sản quý báu ấy, thực là có tội với Tổ Tiên. Cuốn sách mỏng này, chúng tôi cùng nhau lượm lặt, sưu tầm ghi lại những câu đối, những bức hoành phi, mà tổ tiên đã dựng lên, khắc ghi, cung kính treo ở đình, miếu, chùa trên các đồng trụ, cổng làng. Tuy một số đã mất đi, một phần còn lại đó, xin kính cẩn ghi lại, phiên âm. Có thể có chữ chưa đúng, chưa chuẩn như nguyên bản. Mong rằng : Chữ nào chưa đúng hoặc thiếu, hoặc sai mong được bổ sung cho được hoàn hảo.

Việc làm này, không hề có tham vọng gì, mà chỉ nghĩ: Cháu con phải có trách nhiệm gìn giữ di sản của tổ tiên, sao cho những di sản văn hoá ấy mãi mãi được lưu tồn, như những tài sản quý giá của dòng họ Vũ Võ Việt Nam, danh thơm muôn thủa.

Chi tiết

Phần thứ nhất: Dịch nguyên văn bài nói đầu về thế hệ sự tích họ Vũ làng Mộ Trạch, nguyên văn bằng chữ Hán của cử nhân, Hình Bộ Lang Trung Vũ Phương Lan, viết năm 1769, có chú thích, đóng trong dấu ngoặc, và nói nội dung của sự nghiệp tục biên.

Phần thứ hai: Thế hệ họ Vũ làng Mộ Trạch từ đời thứ nhất đến đời thứ tư, bắt đầu phân ra ngũ chi, bát phái.

Phần thứ ba: Những chi (chi một và chi bốn) và những phái (phái Giáp, phái Ất, phái Bính) con cháu đã chuyển đi ở nơi khác hoặc không có người nối dõi, không còn ai ở làng.

Phần thứ tư: những chi (chi hai, chi ba, chi năm) và những phái (phái Đinh, phái Mậu, phái Kỷ, phái Canh, phái Tân) hiện con cháu còn ở trong làng.

Phần thứ năm: a)  Các phái hình thành về sau. -  b)   Phả họ Nhữ, từ phụ lục của phái Kỷ.  -  c)  Phả họ Nguyễn từ phụ lục của phái Ất. -   d)  Sơ đồ phả hệ họ Lê làng Mộ Trạch.  -  đ)   Mục lục.   e)  Phụ lục:  29 bài thơ vịnh nhân vật bổ sung cho những bài đã ghi trong phần dịch phả.  -   g)   Bàn về  nét  (tục biên)

Chi tiết

Cụ Vũ Tảo: PHỤ QUỐC THƯỢNG TƯỚNG QUÂN, tước: Lương Trạch Bá thời MẠC; ông là thế hệ thứ 6 của phái Ất làng Mộ Trạch. Là cháu 4 đời (tức cháu cố hay chắt) của cụ Vũ Quang Lộc (đời thứ 3 và là anh ruột của Tiến sĩ Vũ Cán 1502). Ông sinh vào khoảng đầu triều Vua Mạc Đăng Doanh (1530 – 1540)? Và là con duy nhất của cụ danh y: Vũ Bất Trị (đời 5) Thái Bộc Tự Thiếu Khanh Đạo (xứ) Nghệ An (triều Mạc Đăng Doanh, Phúc Hải, Phúc Nguyên 1530 – 1561) hiệu của cụ Bất Trị là Du Hiên, thọ 70 tuổi.

Chi tiết
Trang:3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12« Back · Next »