Trang chủ Diễn đàn Tin tức Đăng ký Thư viện ảnh Hỏi đáp Video Giới thiệu Liên hệ Đăng nhập Xin chào
VĂN THÁNH (VĂN MIẾU) Phạm Đức Thành Dũng

 

VĂN THÁNH

(VĂN MIẾU)

 Phạm Đức Thành Dũng

Văn Miếu hay Văn Thánh là cách gọi tắt của một ngôi miếu: Văn Thánh Miếu, ngôi miếu thờ vị Thánh về văn- người được hậu thế tôn vinh là Vạn Thế Sư Biểu (người thầy của muôn đời): Khổng Tử. Ngôi miếu này thường có nhiều tên gọi khác: Tiên Sư Miếu, Khổng Tử Miếu, Chí Thánh Miếu, hoặc có nơi gọi là Chí Thánh Tiên Sư Miếu. Tất cả các nước có nền văn hóa Hán và coi trọng Nho học đều có lập Văn Miếu để thờ đức Khổng Tử.

  Danh xưng Khổng Tử có thể hiểu là thầy Khổng. Ông họ Khổng tên Khâu, sinh năm 551 trước Công Nguyên tại nước Lỗ, phía Nam tỉnh Sơn Đông của Trung Quốc ngày nay. Ông là một nhà Nho được tôn vinh lên ngang hàng các bậc Thánh vì ông là một nhà giáo dục vĩ đại. Tinh thần sáng tạo độc đáo trong kiến giải văn hóa Đông phương của Khổng Tử đã được những học trò và những người nối chí ông tiếp tục phát huy và truyền từ đời này sang đời khác. Vì lẽ đó, Khổng Tử có một vị trí hết sức đặc biệt trong hệ thống triết lý của Trung Quốc, trở thành người sáng lập một học phái mới mang tên Nho gia, dung hòa được tất cả các mối quan hệ xã hội trên cơ sở của tính nhân văn cao đẹp.

  Ở Trung Quốc, từ thời Xuân Thu khi Khổng Tử vừa mất, vua nước Lỗ đã cho lập miếu thờ ông ở Khúc Phụ. Triều Tiên và Nhật Bản đều có Văn Miếu thờ Khổng Tử với quy mô rộng lớn, song thời điểm thiết lập muộn hơn. Ở nước ta, việc lập miếu thờ đức Khổng Tử sớm nhất được sử sách ghi lại là vào năm Canh Tuất (1070) dưới triều Lý. Vua Thánh Tôn nhà Lý cho lập Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử cùng các học trò của ông là Chu Công, Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử để thờ. Văn Miếu này được xem là nơi thờ Khổng Tử đầu tiên của nước ta.

  Các triều đại kế tiếp như Trần, Hồ rồi Hậu Lê vẫn duy trì miếu thờ Khổng Tử của nhà Lý. Đến thời vua Lê Thánh Tôn bắt đầu cho dựng bia ghi tên Tiến sĩ, khởi đầu từ khoa thi dưới triều vua Lê Thái Tôn. Tổng số bia còn đến hiện nay là 83 tấm. Dưới triều Nguyễn công trình mang tính điển lễ này vẫn được bảo quản giữ gìn, và vì Thăng Long Hà Nội không còn là kinh đô nên nơi đây trở thành Văn Miếu riêng của Hà Nội.

  Trong thời kỳ các chúa Nguyễn mở mang khai phá phương Nam, Văn Miếu cũng được thiết lập ở Phú Xuân và được xem như Văn Miếu riêng của Đàng Trong, nhưng không rõ thời điểm xây dựng, chỉ biết địa điểm tại làng Triều Sơn. Đến năm Canh Dần (1770) dưới triều của Định Vương Nguyễn Phúc Khoát, Văn Miếu được dời đến xã Long Hồ.

  Đến khi nhà Nguyễn gây dựng cơ đồ, Văn Miếu của cả triều đại và cũng là của toàn quốc lúc này mới được chính thức xây dựng ở địa điểm hiện nay, vào năm 1808 dưới triều vua Gia Long. Ngôi miếu cũ được giữ lại để làm Khải Thánh Từ (tức miếu thờ cha mẹ của Khổng Tử). Với sự tôn trọng Nho học, miếu mới được xây dựng uy nghi đồ sộ, nằm bên bờ sông Hương, thuộc địa phận thôn An Bình, làng An Ninh, phía Tây Kinh Thành.

  Từ cổng Đại Thành Môn nhìn vào, ngay chính giữa là ngôi đại điện thờ Khổng Tử, tên gọi là Đại Thành Điện. Những tên gọi này thống nhất cho tất cả Văn Miếu ở trung ương và địa phương, kể cả những Văn Miếu ở Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản... những công trình tương tự như vậy đều có tên gọi như nhau.  

 

 

 

 

   Điện Đại Thành là kiến trúc trọng yếu của Văn Miếu, toàn bộ được dựng trên một nền cao, dài chừng 32m, rộng 25m. Cấu trúc của ngôi đại điện theo lối trùng thiềm điệp ốc truyền thống của Huế. Ở hai bên trước điện Đại Thành, dựng hai ngôi nhà đối diện nhau là Đông Vu và Tây Vu đều bảy gian.

  Trước sân miếu, người ta kiến thiết hai nhà bia gọn gàng xinh xắn, bên phải có tấm bia khắc bài văn bia ”Thánh Tổ Nhân Hoàng đế dụ: Cung giám bất đắc liệt tấn thân” (Thánh Tổ Nhân Hoàng đế (vua Minh Mạng) dụ về việc Thái Giám không được liệt vào hạng quan lại); bia ở nhà bia bên trái khắc bài văn bia “Hiến Tổ Chương Hoàng đế dụ: Ngoại thích bất đắc thân chính” (Hiến Tổ Chương Hoàng đế (vua Thiệu Trị) dụ về việc bà con bên ngoại của vua không được tham gia chính quyền).

  Ra khỏi cổng Đại Thành của Văn Miếu, bên trái có xây Hữu Văn Đường; bên phải xây Dị Lễ Đường. Đây là những ngôi nhà kiểu một gian hai chái dùng để vua quan nghỉ chân sửa soạn lễ phục trước khi vào tế ở Miếu. Phía trước là hai dãy gồm 32 tấm bia, khắc tên 293 vị Tiến sĩ triều Nguyễn, bắt đầu từ khoa thi đầu tiên năm Minh Mạng thứ 3 (1822) đến khoa thi cuối cùng vào năm Khải Định thứ 4 (1919).

  Trước cổng Văn Miếu, gần bờ sông lại có cửa Linh Tinh Môn gồm bốn trụ xây bằng gạch, phần trên trang trí pháp lam. Tấm biển ở giữa phía trước có đề bốn chữ Hán lớn “Đạo Tại Lưỡng Gian” (đạo giữa trời đất); mặt sau đề bốn chữ Hán tương đương “Trác Việt Thiên Cổ” (vượt cao ngàn xưa). Hai bên khu vực trước cổng Văn Miếu có tấm bia “Khuynh cái hạ mã” (nghiêng lọng xuống ngựa).

  Văn Miếu được xây dựng ngoài việc thờ Khổng Tử còn thờ bốn người gọi là Tứ Phối: Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư và Mạnh Tử, cùng Thập Nhị Triết. Đông Vu và Tây Vu gồm 14 án, thờ các Tiên Hiền và Tiên Nho, những người có công trong việc phát triển đạo Nho.

  Đối với việc thờ phụng, triều Nguyễn cho lập bài vị bằng gỗ (còn gọi linh vị, mộc chủ, thần chủ) để thờ và buộc tất cả các địa phương nơi nào thờ Khổng Tử bằng hình tượng đều phải thay thế bằng bài vị mộc chủ, còn các tượng thì phải lựa chọn nơi sạch sẽ chôn đi. Đây là một cách nhìn khá đặc biệt của triều Nguyễn. Họ cho rằng thờ bằng hình tượng là thiếu trang trọng, thiếu lễ độ đối với người đã khuất, cho nên ngay cả bàn thờ các vua Nguyễn cũng không hề thờ bằng hình tượng.

  Trải qua bao biến thiên của lịch sử, Văn Miếu bị tàn phá nặng nề. Gần đây, Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế đã có nhiều nỗ lực trong việc bảo tồn di tích này, những tấm bia đã được dựng lại ngay ngắn và làm nhà bia che chắn. Văn Miếu không còn nét hoang tàn đổ nát như trước. Song, những điều làm được vẫn còn quá ít cho một di tích mang nét văn hóa hết sức độc đáo và đậm bản sắc của người Việt Nam như Văn Miếu Huế.

  Văn Miếu là một biểu tượng độc đáo của nền giáo dục nước ta trong giai đoạn vương quyền phong kiến thống trị. Việc lập Văn Miếu và dựng bia Tiến sĩ nhằm nhắc lại cụ thể sự tôn trọng việc học, đề cao nhân tài của đất nước và những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Để từ đó mọi tầng lớp nhân dân thấy rằng, ai cũng có thể tiến thân bằng con đường học vấn, một nền học vấn không phân biệt giai cấp và đề cao đức hạnh. Nho học đã trở thành đạo chung cho nước nhà.

  Ngày nay, Văn Miếu Huế đã trở thành một di tích đánh dấu thời kỳ thịnh trị nhất của Nho giáo- thời kỳ vương triều Nguyễn dùng Nho học làm phương tiện trợ giúp đắc lực để thiết lập quyền thống trị trên toàn đất nước. Nho giáo tuy không còn là quốc đạo nhưng những tư tưởng về đạo đức và lối sống của nhà Nho, kết hợp với bản sắc văn hóa truyền thống đã kết tinh thành nền tảng vững chắc trong đời sống tinh thần của người Việt Nam hôm nay.

 Phạm Đức Thành Dũng