Theo Việt Nam Tân Tự Điển của Thanh Nghị, bản in năm 1956, miễu có nghĩa là cái miếu nhỏ. Theo Sơn Nam trong quyển Thuần Phong Mỹ Tục Việt Nam, chữ "miễu" là đọc trại từ chữ "miếu" mà rạ Theo Phan Kế Bính trong sách Việt Nam Phong Tục bàn về việc "Đình Miếu", tác giả viết :" Miếu là chỗ "quỉ thần bằng y", đình là nơi thờ vọng và để làm nơi công sở cho dân hội họp. Miếu thường hay kén những nơi đất thắng cảnh, nhất là trên gò cao, hoặc là nơi gần hồ to sông lớn thì mới hay". Và theo quyển Hán Việt Tự Điển của Nguyễn Văn Khôn giải thích danh từ "miếu" là đền thờ, còn gọi "cái miễu". Trong dân gian cũng thường gọi đình miếu và chùa miễu như ngầm phân biệt vài nét khác nhau giữa miếu và miễu ở miền quê.