Trang chủ Diễn đàn Tin tức Đăng ký Thư viện ảnh Hỏi đáp Video Giới thiệu Liên hệ Đăng nhập Xin chào
KHỞI NGUỒN, LỊCH SỬ DÒNG HỌ VŨ-VÕ > NGHIÊN CỨU, TRAO ĐỔI

 

Nước ta bắt đầu có thi Nho học từ năm 1075 d­ới triều Lý Nhân Tông và chấm dứt thi Nho học vào năm 1919 đời vua Khải Định nhà Nguyễn. Trong 845 năm đó, đã có nhiều loại khoa thi khác nhau, ở mỗi triều đại lại có những đặc điểm khác nhau, song trong các đời Lý, Trần, Hồ có một đặc điểm chung là các khoa thi đều do triều đình đứng ra tổ chức, chỉ đạo thi.

Đời Lý mới bắt đầu có thi Nho học, quy chế thi thế nào nay không có điều kiện biết rõ, như­ng nói chung có lẽ các chế định còn sơ sài, chư­a thành nếp rõ rệt, ngư­ời ta tùy theo nhu cầu tuyển lựa quan lại của từng thời kỳ mà tổ chức thi và căn cứ theo nội dung thi, đối t­ợng dự thi, tuyển chọn mà đặt tên khoa thi như­: thi Nho học tam trư­ờng, thi tuyển ng­ười có văn học sung vào viện Hàn Lâm, thi tuyển ngư­ời vào hầu vua, hầu đông cung Thái tử học...

Chi tiết

 

Đinh từ tự điển viết bằng chữ Hán, do Nho sinh Vũ Tông Hải, tự là Bao Như trước thuật xong vào ngày tốt tháng 2 mùa Xuân năm Cảnh Hưng thứ 31 (1780). Lang Trung Vũ Lan Am (Vũ Phương Lan) đề tựa. Tiến sĩ, cống bộ Phó sứ, Đông các đại học sĩ, Hồng Trạch Bá Vũ Di Hiên (Vũ Huy Đĩnh) xem lại. Nhóm tác giả này đều là anh em con cháu họ Vũ ở làng Mộ Trạch.

Đinh từ tự điển hiện nay lưu ở Ban quản lý di tích Mộ Trạch có lẽ là bản sao, không rõ thuộc thế hệ thứ mấy? Sách gồm 47 trang, giấy cũ, khổ 14x27cm. Chữ Hán chân phương, mỗi trang 8 dòng, dòng nhiều nhất 23 chữ, dòng ít nhất 3 chữ; tổng cộng khoảng gần 6000 chữ.

Chi tiết

 

1.     PHÁI GIÁP:

Không phải phái này là con trưởng hay đàn anh bảng phái sau đâu! Theo ý kiến riêng, có lẽ Cụ Tổ mở đầu của phái Giáp đã xuất hiện sớm nhất? So với 7 cụ khởi Tổ 7 phái tiếp theo chăng? Không biết Ngài tên gì cả! Chỉ chép là Vũ Công = (ông họ Vũ) có tên hiệu là Chân Nhân. Đây là cụ khởi Tổ của phái giáp.

-         Có lẽ cụ Tổ Chân Nhân này sinh vào khoảng những năm 1425 – 1430? Vì con trai cụ là ông Hoàng Giáp Tiến sĩ Vũ Quỳnh (sinh năm Quí Dậu 1453) đời vua Nhân Tông. Thì Cha là cụ Chân Nhân được triều đình Lê Thánh Tông tặng cho chức Tham Chính (lúc đó cụ đã mất lâu rồi) vì ông Quỳnh đỗ Tiến sĩ năm 1478 (sau ông Vũ Hữu 15 năm) đã ra làm quan. Nên biết: đời xưa, lúc còn sống, vua ban cho chức tước thì gọi là Phong. Lúc chết, vua cho chức tước thì gọi là Tặng. Bởi thế mới có thành ngữ cổ: Sinh phong, Tử tặng (sống được phong chức, chết được tặng chức).

Chi tiết

 

Thực tế, trong các gia đình Việt Nam xưa, người Bà Nội, Bà Ngoại, Người Mẹ, Người dâu Trưởng Họ, thường rất được nể trọng (nhất là Mẹ Già và Bà Nội). Cho nên trong các truyện cổ ca ngợi người con có hiếu, đa số đều là con trai có hiếu với mẹ nhiều hơn là con có hiếu với cha? như  truyện nôm “Nhị Thấp tứ Hiếu” (hai mươi bốn người con có hiếu). Quốc sử cũng khen vua Lê Thánh Tông rất hiếu kính với mẹ đẻ là Bà Quang Phục Hòang Thái Hậu. Rồi Trịnh Kiểm, khai sáng nhà chúa họ Trịnh, lúc hàn vi (đầu thế kỷ 16) có hiếu với mẹ lắm. Và Vua Tự Đức (1848-1883) có tiếng là hiếu kính với Bà Từ Dũ Hòang Thái Hậu. Còn dân dã, con trai, con gái, hiếu với mẹ có rất nhiều. Đối với Bố, con cái kính nhiều hơn hiếu? Đó là thực trạng xưa.

Gia đình Việt Nam xưa có nề nếp, dù giàu, dù nghèo, sang, hèn. Vai trò của Bà Nội, Bà Ngọai, Mẹ, coi như là quyết định mọi chuyện cưới hỏi, ma chay, giỗ Tết trong nhà. Các Nho Sĩ nhờ Mẹ, nhờ vợ nuôi nấng cũng rất nhiều. Cho nên vai trò phụ nữ Việt xưa rất quan trọng trong gia đình. Mặc dù nữ giới bị cấm đi thi, cấm làm quan, cấm gia Đình làng, hội họp …. Nhưng ở tron gia đình, phụ nữ được gọi là nội tướng, là gia Nội. Rõ ràng, ngày xưa nhiều người đàn bà lấy được chồng giàu sang hay quyền quý mới được Sử, Phả nêu tên và thường được bà con, anh em, cha me, quý nể và hãnh diện nữa, vì được nhờ vả ít nhiều. Đàn ông Việt Nam quý mẹ, nể vợ nhiều lắm!

Chi tiết

Theo Đại Nam nhất thống chí, vào đời Hùng Vương, đất Mộ Trạch thuộc bộ Thang Tuyền; đời Tấn thuộc Tượng Quận; đời Hán thuộc quận Giao Chỉ. Đến đời Đường Hội Xương có Vũ Hồn sang làm Thứ sử Giao Châu, tinh thông khoa địa lý, thấy cuộc đất vùng này rất tốt, bèn lập nghiệp luôn và dặn con cháu phải giữ làng này làm nguyên quán thì đời đời sẽ tiến phát về đường khoa bảng. Bèn đặt tên huyện là Đường An, làng là Khả Mộ, sau đổi là Lạp Trạch, sau nữa lại ghép thành Mộ Trạch, tên nôm là làng Chằm và giữ mãi hai tên ấy cho đến ngày nay. Vũ Hồn cho rằng cả vùng Hải Dương là một đại cuộc, huyện Đường An là huyệt trường và làng Mộ Trạch là huyệt kết.

Chi tiết

Làng Mộ Trạch, từng được vinh danh là  “Tiến Sĩ Sào” (có thể hiểu nghĩa đen là: Cái nôi (ổ) ấp nở ra các ông tiến sĩ, hay sào huyệt của các ông Nghè). Không nên dịch là “Lò Tiến Sĩ” hay “Làng Tiến Sĩ”. Tiếng Việt xưa nay chỉ có Lò dạy võ, lò, gốm, lò, gạch, lò vôi…chứ không ai nói: lò văn chương, lò tiến sĩ? Chữ “lò” thường được coi là dung tục và tầm thường. Cổ nhân xưa không kiêu ngạo, hãnh tiến tự nhận làng mình là “làng tiến sĩ” bao giờ đâu. Văn hóa Nho gia là khiêm tốn và lễ giáo, chẳng ai dám  “Mục Hạ Vô nhân” mà tự xưng như vậy! Các cụ có tự hào của làng Mộ trạch, nhưng gán câu chữ “Tiến sĩ sào” là do 1 người cháu 17 đời của Cao Biền nhận định thế (dù rằng ai mà có thể kiểm chứng được?). Cổ nhân Mộ Trạch rất tế nhị, chỉ tự hào khiêm tốn rằng: “làng tôi nhỏ bé như tổ chim, nhưng đã ấp nở ra nhiều tiến sĩ, chứ đâu phải cả làng đều đỗ tiến sĩ, (cũng như tổ chim , ổ gà lúc ấp, còn có trứng nở, trứng hỏng).

Chi tiết
Trang:1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8« Back · Next »