Trang chủ Diễn đàn Tin tức Đăng ký Thư viện ảnh Hỏi đáp Video Giới thiệu Liên hệ Đăng nhập Xin chào
KHỞI NGUỒN, LỊCH SỬ DÒNG HỌ VŨ-VÕ > PHONG TỤC, TẬP QUÁN

-Đây là một làng có văn học xưa (nay nói là làng văn hoá cổ) nên độc đáo hơn các làng khoa bảng khác ở chỗ trọng người có học thức có phẩm chức triều đình nên trong tế Văn ở Đình hàng năm, nếu tổ chức Đại Đán. Ban nghi lễ của làng, đều có đọc tế văn này. Trước nhất là nêu ngài Thành Hoàng THẦN TỔ được chức tước phẩm hàm của Triều Đình xưa, các Vua bao – phong (chỉ có các vị Thành Hoàng Phúc Thần mới được dùng  chữ ghép: “bao phong”). Còn các quan chức thì dùng chữ “phong”, hay gia phong  (ban thêm cho). Nhưng vị nào có chữ TẶNG, hay TRUY TẶNG ở trước phẩm hàm là đã chết rồi mới được ban chức tước thì gọi là TẶNG. Vì thế, thời xưa có câu khuôn mẫu chỉ dẫn là: Sinh Phong, Tử Tặng. Sống được phong, chết được tặng. Nên trong 360 cụ được tôn vinh trong Tế Văn, có một số Cụ có công trạng, nhưng có cụ chì có công nuôi dạy con cháu làm quan lớn, nên các Cụ đó được TẶNG phẩm hàm để thờ thôi, chứ lúc sống không hề có chức tước gì cả. Đó là hư danh có tính chất khen thưởng công lao nuôi dạy con cháu nên người. Theo điển lệ xưa, khi con cháu có làm quan to, cha mẹ được TẶNG chức tước kém con một bậc, ông bà kém cháu 2 bậc. Như cụ Tể Tướng Duy Chí, được Vua Lê Chúa Trịnh truy TẶNG bốn đời trực tiếp trên đời Cụ. Thực chất, có Cụ làm quan to, mà cha mẹ, ông bà, cụ kỵ, là nông dân thuần phác, không có học hành chữ nghĩa gì cả. Nhưng theo cổ lệ điển chế (tục xưa qui định) cũng được tặng “hàm Thượng Thư, Kim Tử Vinh, Lộc Đại Phu hay Thị Độc Học Sĩ, Thị Lang, Hàn Lâm đãi chiếu, Biên Tu…v.v.Việc TẶNG này chỉ là để động viên, an ủi, cho con cháu, cho thấy Vua và triều đình có quan tâm đến cha ông mình. Đó là đôi điều xin được chú giải cho người chưa biết, nhất là các thế hệ sau.

Chi tiết

Xưa kia, các làng quê Việt Nam trước năm 1945 đều có Văn Chỉ để thờ các Thánh Nho, Tứ phối, Thập Triết cùng các vị tiên Hiền, tiên Nho và các cụ trong làng có chữ nghĩa, phẩm hàm Văn Giai (quan Văn), do triều đình phong cấp cho (như Thị Lang, Hồng Lô Thái Bảo, Hàn Lâm, Bát phẩm, cửu phầm Văn Giai, Bá Hộ …) mà có công với làng, đã khuất. Chỉ trừ các làng Công Giáo theo Tây, theo đạo Chúa thì không có đình, Miếu, Chùa, Am, các Từ Đường. Vì các Cha cố ngoại quốc cuồng tín, hiểu sai thờ Thành Hoàng, thờ Tiên Nho, thờ tổ tiên là tôn giáo nên cấm “con chiên bổn đạo” không được lễ lạy tổ tiên, ông bà trong ngày giỗ kị, cắm thắp hương, cúng vái. Huống chi Lễ Giỗ Tổ Họ, Thành Hoàng, Thánh Nho Hiền. Vì Thế, thời Pháp thuộc (1864 – 1945 – 1954) cộng đồng xã thôn Việt Nam đã coi các “làng có Đạo” như dị vật, vong bản; bị các Nho gia và đa số dân quê ghẻ lạnh, tránh xa, coi như kẻ thù. Vì thế có nhiều chuyện xích mích gây mất đoàn kết Lương Giáo, chỉ vì Tín ngưỡng dân tộc bị hiểu lầm. (May sau năm 1960, Tòa Thánh La Mã thấy sai lầm, sửa lỗi, cho thắp hương thờ gia tiên và được ăn giỗ, lễ lạy ông bà, cha mẹ đã khuất). Nên làng theo Đạo, không có Văn Chỉ!

Chi tiết

 

" Nhật Nguyệt Linh Khí tụ,

" Ngũ Phụng triều dương lai,

" Thập Bát Tiến Sĩ, Tam Tể Tướng,

" Tử Tôn vinh hiển, mãn cân đai."

Chi tiết

       Đây là một làng cổ có từ giữa thế kỷ thứ IX (chín) được một nhân vật lịch sử VŨ HỒN (804 – 853) thành lập cách nay 1155 năm (844 – 2009) vẫn còn là các di tích văn hóa và lịch sử cổ đáng tham quan chiêm bái.

       Làng Mộ Trạch hiện nay thuộc xã Tân Hồng, huyện Bình Giang tỉnh Hải Dương. Cách thủ đô Hà Nội khoảng 45 cây số đường xe chạy, bằng quốc lộ 5, hướng thị trấn Gia Lâm đi về phía thành phố Hải Dương và Hải Phòng (qua các thị trấn Sài Đồng, Trâu Quì, Như Quỳnh, Bần Yên Nhân…)

Chi tiết

Ðề cập tới văn hóa, phong tục của một dân tộc là một đề tài hết sức phức tạp, vì mỗi dân tộc không ít thì nhiều là một đơn vị đặc thù, dầu vậy tính cách đặc thù văn hóa này không khải là cô lập, nhưng là kết tinh vừa tế nhị vừa phức tạp qua sự giao tiếp với các dân tộc khác, với những nền văn minh khác.

Chi tiết

Ðề cập tới văn hóa, phong tục của một dân tộc là một đề tài hết sức phức tạp, vì mỗi dân tộc không ít thì nhiều là một đơn vị đặc thù, dầu vậy tính cách đặc thù văn hóa này không khải là cô lập, nhưng là kết tinh vừa tế nhị vừa phức tạp qua sự giao tiếp với các dân tộc khác, với những nền văn minh khác. Văn hóa, phong tục tập quán của người Việt cũng thế, là những tinh hoa đã được gạn lọc, biến hóa qua cuộc sống dân tộc của biết bao nhiêu thời đại, qua việc tiếp xúc với nền văn minh, những nguồn tư tưởng sâu rộng nhất, mạnh mẽ nhất của nhân loại như Hoa-Ấn, Hy-La.

Chi tiết
Trang:1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7« Back · Next »